PCI 2016: Đà Nẵng giữ vững ngôi đầu, Hà Nội bật tăng 10 bậc

13:23 | 14/03/2017

522 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo Báo cáo thường niên Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2016, Đà Nẵng tiếp tục giữ vững ngôi đầu bảng xếp hạng, trong khi đó, Hà Nội với những nỗ lực cải cách môi trường đầu tư trong năm 2016 đã vươn lên vị trí thứ 14, tăng 10 bậc so với năm 2015.
pci 2016 da nang giu vung ngoi dau ha noi bat tang 10 bac
Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc phát biểu tại buổi công bố PCI 2016.

Sáng nay (14/3), Phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đã công bố Báo cáo thường niên Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2016. Ông Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch VCCI và ông Ted Osius – Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam chủ trì buổi công bố.

Phát biểu khai mạc, ông Vũ Tiến Lộc cho hay: PCI đã bước vào tuổi 12. 12 năm với bao thăng trầm và gian nan của nền kinh tế Việt, chúng ta hiểu được rằng, không có con đường nào khác ngoài con đường cải cách là cứu cánh cho nền kinh tế Việt Nam. PCI tự hào đóng góp một viên gạch nhỏ trên con đường cải cách đó của Việt Nam. PCI đã trở thành cảm hứng và áp lực tuyệt vời cho việc cải cách tại các địa phương và cơ sở. Từ một bộ chỉ số chỉ có tính chất khuyến cáo và kiến nghị địa phương tham gia một cách tự nguyện đã trở thành một yêu cầu bắt buộc được ghi trong nghị quyết của Chính phủ, điều này đã ghi nhận sự đóng góp của bộ chỉ số PCI trong sự cải cách của các địa phương tại Việt Nam.

“PCI là sáng kiến và là công việc của Việt Nam nhưng đã có sự hỗ trợ và đồng hành tích cực của USAID. PCI không chỉ thực hiện thành công ở Việt Nam mà đã xuất khẩu thành công trên hơn 10 nước trên thế giới. Và chúng ta vui mừng khi thấy môi trường kinh doanh Việt Nam có nhiều khởi sắc. Gần 1 nửa doanh nghiệp trong nước và một nửa doanh nghiệp nước ngoài cho biết đang có kế hoạch tiếp tục phát triển kinh doanh tại Việt Nam, kết quả này trùng khớp với nghiên cứu cảm nhận đầu tư của Hội các DN nước ngoài tại Việt Nam” – Ông Lộc nói.

Theo ông Lộc, môi trường kinh doanh của Việt Nam đang có nhiều cải thiện tích cực. Đằng sau những tín hiệu tích cực đó chính là chủ trương của Chính phủ mới trong việc xây dựng quốc gia khởi nghiệp và chính phủ kiến tạo.

“Chúng ta đang thấy có một sung lực cải cách mạnh mẽ và đồng bộ tại Việt Nam. Đặc biệt, chúng ta còn nhận thấy những động thái cải cách tích cực có từ cấp cơ sở, tạo nên một bước đi mới cho cải cách” – ông Lộc nhấn mạnh.

pci 2016 da nang giu vung ngoi dau ha noi bat tang 10 bac
Toàn cảnh buổi công bố PCI 2016.

Còn theo Đại sứ Ted Osius, Báo cáo PCI 2016 có tầm quan trọng sống còn đối với các nhà đầu tư và doanh nghiệp đang tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Chính phủ Hoa Kỳ tự hào hợp tác với VCCI trong 12 năm qua trong các nỗ lực khảo sát và phân tích số liệu để xây dựng Báo cáo PCI 2016.

Đại sứ Ted Osius khẳng định: Cạnh tranh sẽ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động khi chúng ta đang tăng cường quan hệ thương mại và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng. Và Báo cáo PCI 2016 cho thấy tinh thần lạc quan đang tăng lên trong cả các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Đó là những cải thiện vững chắc trong việc thực hiện các cải cách nói chung.

“Nhiều địa phương trước đây không được xếp hạng cao thì nay đã cải thiện, thu hẹp khoảng cách giữa các địa phương xếp hạng cao nhất và xếp hạng thấp nhất. Các doanh nghiệp nước ngoài nhận thấy rằng chi phí gia nhập thị trường đã giảm đáng kể, và họ coi đó là nhờ có Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014. Các địa phương đang ngày càng sáng tạo trong việc thúc đẩy môi trường kinh doanh mạnh mẽ. Họ đã chủ động tiếp cận giới doanh nghiệp để tìm các giải pháp sáng tạo cho những thách thức cải cách đang tồn tại” – Đại sứ nhấn mạnh.

Theo Bảng xếp hạng PCI 2016, Đà Nẵng năm thứ 4 liên tiếp trụ vững tại ngôi đầu bảng với số điểm 70, đánh dấu lần thứ 7 thành phố này dẫn đầu cả nước kể từ khi chỉ số PCI được công bố. Trong khi đó, Quảng Ninh với 65,60 điểm đứng ở vị trí thứ 2 trong bảng xếp hạng – thứ hạng cao nhất của tỉnh từ khi PCI được thực hiện. Đồng Tháp mặc dù không có nhiều điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý nhưng năm 2016 với những nỗ lực cải cách của mình đã đạt 64,96 điểm, đứng ở vị trí thứ 3 và đây cũng là lần thứ 9 tỉnh đứng trong Top 5 tỉnh, thành phố có chất lượng điều hành cao nhất. Các tỉnh như Bình Dương (63,57 điểm), Vĩnh Long (62,76 điểm) và Lao Cai (63,49 điểm) đã trở lại ấn tượng trong nhóm những tỉnh, thành phố có chất lượng điều hành xuất sắc.

Đáng ghi nhận trong PCI 2016 là các tỉnh thuộc nhóm cuối bảng xếp hạng đã có nhiều nỗ lực cải cách hết sức ấn tượng khi khoảng cách về điểm số giữa tỉnh cao nhất và thấp nhất năm nay đã được thu hẹp chỉ còn 12 điểm, thấp nhất trong 12 năm qua. Bên cạnh đó là xu hướng cải thiện điểm số PCI của 5 thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, Hà Nội lần đầu tiên sau nhiều năm đã vượt ngưỡng 60 điểm để bước vào nhóm có chất lượng điều hành tốt, xếp ở vị trí thứ 14 trong 63 tỉnh thành phố.

pci 2016 da nang giu vung ngoi dau ha noi bat tang 10 bac
Bảng xếp hạng PCI 2016.

Nhìn chung, qua kết quả khảo sát của PCI, chất lượng điều hành kinh tế của các tỉnh, thành phố Việt Nam tiếp tục được cải thiện. So với năm 2015, những chuyển biến tích cực được thể hiện ở các lĩnh vực có tính năng động, tiên phong của chính quyền tỉnh, chi phí không chính thức, đào tạo lao động, cạnh tranh bình đẳng và đăng ký doanh nghiệp. Tuy nhiên, gánh nặng khi thực hiện thủ tục hành chính, tiếp cận đất đai chưa thuận lợi và môi trường pháp lý chưa an toàn vẫn là một số trở ngại chính đối với nhiều doanh nghiệp trong nước.

Tuy nhiên, kết quả điều tra PCI 2016 cũng phản ánh những dấu hiệu khởi sắc đối với các doanh nghiệp tư nhân. Theo đó, 65% doanh nghiệp hoạt động có lãi, tỉ lệ cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Và lần đầu trong vòng 12 năm, quy mô vốn trung bình của doanh nghiệp đã tăng mức cao nhất, bình quân 18,1 tỉ đồng, gấp đôi so với năm 2006. Tỉ lệ doanh nghiệp tuyển dụng thêm lao động cũng tăng từ 12% năm 2015 lên 13% năm 2016. Các doanh nghiệp tiếp tục lạc quan về triển vọng kinh doanh với 48% doanh nghiệp dự kiến sẽ mở rộng quy mô kinh doanh trong vòng 2 năm tới, tương đương mức của năm trước đó.

Điều tra 1.550 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong năm 2016 của PCI cũng thấy dấu hiệu tích cực tương tự. 11% doanh nghiệp FDI cho biết đã tăng vốn đầu tư, 63% tuyển dụng thêm lao động mới – mức tăng cao nhất trong vòng 5 năm gần đây. Hơn nửa số doanh nghiệp FDI được khảo sát cũng thông tin có ý định tăng quy mô hoạt động, cao nhất từ năm 2010.

Về chi phí gia nhập thị trường và tham nhũng vặt, các doanh nghiệp FDI đánh giá là có giảm. Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư vẫn e ngại về môi trường kinh doanh bình đẳng và việc tiếp cận thông tin về tài liệu ngân sách, kế hoạch, quy hoạch còn gặp nhiều khó khăn. Các thủ tục hành chính hậu đăng ký tại Việt Nam vẫn cần được đơn giản hóa, nhằm giảm bớt gánh nặng chi phí tuân thủ cho các doanh nghiệp.

Ngoài ra, Báo cáo PCI 2016 cũng dành riêng một chương để đánh giá về cảm nhận của các doanh nghiệp về các vấn đề môi trường. Kết quả điều tra cho thấy có tới 50% doanh nghiệp FDI và 45% doanh nghiệp trong nước tin rằng bảo vệ môi trường là vấn đề quan trọng và sản sàng trả một mức chi phí hợp lý cho các hoạt động cụ thể cũng như áp dụng thêm các quy định pháp luật để tránh ô nhiễm.

“Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam hưởng lợi từ một Việt Nam “xanh” và họ ủng hộ các nỗ lực để giữ cho môi trường trong lành tại đất nước này” – Báo cáo PCI 2016 nhấn mạnh.

Triển khai xây dựng và công bố từ năm 2005, PCI là một bộ chỉ số bao gồm nhiều chỉ số thành phần như chi phí gia nhập thị trường, tiếp cận đất dai và sự ổn định trong sử dụng đất, tính minh bạch, chi phí thời gian, chi phí không chính thức, tính năng động của chính quyền địa phương, môi trường cạnh tranh bình đẳng, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, đào tạo lao động và thiết chế pháp lý. PCI do một nhòm chuyên gia trong và ngoài nước của VCCI thực hiện với sự hỗ trợ của USAID.

Báo cáo PCI năm 2016 được thực hiện dựa trên thông tin phản hồi từ 11.600 doanh nghiệp, trong đó có 10.000 doanh nghiệp dân doanh đang hoạt động tại 63 tỉnh thành phố và gần 1.600 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại 14 tỉnh, thành phố tại Việt Nam.

Thanh Ngọc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
AVPL/SJC HCM 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,020 ▲50K 11,300 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 11,010 ▲50K 11,290 ▲50K
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
TPHCM - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Hà Nội - PNJ 112.500 115.000
Hà Nội - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Đà Nẵng - PNJ 112.500 115.000
Đà Nẵng - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Miền Tây - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Miền Tây - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.800 ▲500K 115.300 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.690 ▲500K 115.190 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.980 ▲500K 114.480 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.750 ▲500K 114.250 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.130 ▲380K 86.630 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.100 ▲290K 67.600 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.620 ▲210K 48.120 ▲210K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.760 105.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.680 70.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.270 74.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.710 78.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.700 43.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.530 38.030
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,090 ▲50K 11,540 ▲50K
Trang sức 99.9 11,080 ▲50K 11,530 ▲50K
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Miếng SJC Nghệ An 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Miếng SJC Hà Nội 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Cập nhật: 13/05/2025 14:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16110 16377 16951
CAD 18054 18329 18946
CHF 30135 30509 31153
CNY 0 3358 3600
EUR 28214 28480 29510
GBP 33448 33835 34771
HKD 0 3199 3401
JPY 168 173 179
KRW 0 17 18
NZD 0 14967 15556
SGD 19368 19648 20173
THB 697 760 813
USD (1,2) 25688 0 0
USD (5,10,20) 25726 0 0
USD (50,100) 25754 25788 26130
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,790 25,790 26,150
USD(1-2-5) 24,758 - -
USD(10-20) 24,758 - -
GBP 33,792 33,883 34,780
HKD 3,273 3,283 3,383
CHF 30,320 30,415 31,250
JPY 172.06 172.37 180.06
THB 741.37 750.53 803
AUD 16,301 16,360 16,802
CAD 18,319 18,377 18,874
SGD 19,568 19,629 20,240
SEK - 2,602 2,694
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,801 3,932
NOK - 2,444 2,530
CNY - 3,567 3,665
RUB - - -
NZD 14,874 15,012 15,443
KRW 17.06 17.79 19.1
EUR 28,394 28,417 29,632
TWD 773.78 - 936.8
MYR 5,593.95 - 6,313.23
SAR - 6,807.61 7,165.5
KWD - 82,156 87,497
XAU - - -
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,760 25,770 26,110
EUR 28,231 28,344 29,444
GBP 33,594 33,729 34,696
HKD 3,263 3,276 3,382
CHF 30,184 30,305 31,204
JPY 171.27 171.96 179
AUD 16,251 16,316 16,845
SGD 19,545 19,623 20,158
THB 757 760 793
CAD 18,245 18,318 18,827
NZD 14,989 15,495
KRW 17.49 19.26
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25770 25770 26130
AUD 16253 16353 16921
CAD 18232 18332 18886
CHF 30368 30398 31283
CNY 0 3574 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28486 28586 29358
GBP 33728 33778 34896
HKD 0 3355 0
JPY 171.97 172.97 179.53
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15056 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19522 19652 20379
THB 0 724 0
TWD 0 845 0
XAU 11800000 11800000 12000000
XBJ 11000000 11000000 12000000
Cập nhật: 13/05/2025 14:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,180
USD20 25,770 25,820 26,180
USD1 25,770 25,820 26,180
AUD 16,258 16,408 17,478
EUR 28,491 28,641 29,821
CAD 18,163 18,263 19,579
SGD 19,580 19,730 20,205
JPY 172.28 173.78 178.47
GBP 33,784 33,934 34,723
XAU 11,798,000 0 12,002,000
CNY 0 3,457 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/05/2025 14:00