Nguy cơ lạm phát tăng cao trở lại

07:00 | 24/03/2013

714 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Ngay từ đầu năm, nhiều chuyên gia kinh tế đã nhìn nhận, mục tiêu lạm phát 7% cho năm 2013 đang đặt ra nhiều thách thức lớn. Trong bối cảnh phải giảm lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, thực hiện lộ trình giá thị trường đối với các mặt hàng thiết yếu… thì không ai có thể dám chắc trong thời gian tới, lạm phát không thể tăng cao trở lại.

Nới lỏng quản lý!

Thực tế, ngay thời điểm này những nguyên nhân có thể dẫn tới lạm phát cao đã manh nha xuất hiện. Từ sau tết, giá cả nhiều mặt hàng tiêu dùng đã tăng lên khá cao. Đơn cử như giá sữa, đã có vài lần điều chỉnh với mức tăng trung bình 8-10% được coi là mức tăng đáng lo ngại.

Ngoài ra, việc nới lỏng tín dụng đang được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) áp dụng cũng có thể là nguyên nhân đẩy lạm phát tăng lên. Rất dễ nhận thấy, năm 2012, Việt Nam thành công trong kiềm chế lạm phát chủ yếu là nhờ việc điều hành chính sách theo hướng thắt chặt. Cung tiền ra nền kinh tế yếu, sức mua giảm nên lạm phát giảm. Nếu thời điểm này, nguồn cung tín dụng tăng, nhu cầu chi tiêu của người dân cũng tăng lên, rất có thể sẽ khiến lạm phát tăng theo.

Nhiều chuyên gia nước ngoài nhìn nhận, Việt Nam đang đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó lạm phát sẽ là một trong những chỉ số kinh tế quan trọng để đo lường mức độ cam kết của Chính phủ đối với công cuộc cải cách. “Tiếp tục chống lại áp lực bơm nguồn tín dụng rẻ vào các lĩnh vực kinh tế kém hiệu quả sẽ giúp lạm phát ổn định” - chuyên gia Ngân hàng HSBC góp ý.

Đặc biệt, để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, Chính phủ sẽ có nhiều chính sách giảm lãi suất, ưu đãi thuế cho một số lĩnh vực ưu tiên. Nếu không kiểm soát tốt, những chính sách này sẽ có những “tác dụng phụ”, tác động xấu đến mục tiêu kiềm chế lạm phát.

Lo ngại về vấn đề trên TS Trần Du Lịch - Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Quốc hội cho rằng: “Để hỗ trợ nền kinh tế, Chính phủ hiện nay đang có dư địa rất lớn từ hai công cụ là tiền tệ và tài khóa chứ không phải bế tắc như năm ngoái. Giả sử năm nay Việt Nam chỉ cần tăng trưởng tín dụng 10% thì từ giờ đến cuối năm, mỗi tháng sẽ cung ra thị trường khoảng 50.000 tỉ đồng”. Mặt khác, ông Trần Du Lịch cũng nêu thêm ý kiến: “Về nguồn ngân sách (gồm đầu tư của Nhà nước và trái phiếu), từ nay đến cuối năm mỗi tháng có thể bơm ra hơn 21.000 tỉ đồng. Vậy tổng cộng mỗi tháng Việt Nam có thể bơm ra nền kinh tế 71.000 tỉ đồng để kích thích sản xuất, tăng trưởng GDP”.

Cùng chung quan điểm trên, TS Nguyễn Trí Thành - Viện phó Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho rằng, lạm phát Việt Nam phụ thuộc vào cách điều hành một số mặt hàng mà Nhà nước vẫn đang kiểm soát giá. Với diễn biến của thị trường hiện nay, cũng như những chính sách điều hành đã được ban hành, năm 2013 sẽ rất căng đối với lạm phát. “Nếu chúng ta hỗ trợ doanh nghiệp quá đà, tái cấu trúc hệ thống tài chính, ngân hàng không khéo, bất ổn sẽ quay trở lại, niềm tin mất đi. Nhưng nếu chúng ta làm không đủ mạnh thì sẽ lại như Nghị quyết 13 cho đến nay được đánh giá là tác động vô cùng yếu ớt” - ông Thành nói.

Rất đáng lo ngại

Hai tháng đầu tiên của năm 2013, CPI cả nước đã tăng tới 2,59% so với tháng 12-2012 và tăng trên 7% so với cùng kỳ năm trước. Trong bối cảnh việc điều hành chính sách đang nghiêng theo chiều hướng “bơm tiền, cứu doanh nghiệp để cứu nền kinh tế…” thì đây là vấn đề rất đáng quan ngại.

Báo cáo đánh giá về triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam 2013 được Ủy ban Kinh tế của Quốc hội công bố tuần qua cũng cho thấy, lạm phát vẫn đang là vấn đề đáng lo ngại, là thách thức lớn đối với nền kinh tế trong năm 2013. Báo cáo đã chỉ ra 4 yếu tố được xác định có thể là nguyên nhân khiến lạm phát có nguy cơ tái phát. Thứ nhất là việc tăng lương tối thiểu. Dù việc tăng lương giúp tăng thu nhập người dân và thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng, tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế suy giảm, việc tăng lương sẽ như một “cú sốc tiêu cực” tác động đến doanh nghiệp.

Nguyên nhân thứ hai là việc giá điện tăng 5%, lên mức 1.437 đồng/kWh, lần tăng giá thứ hai kể từ 1-7-2012, dù EVN đánh giá không tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đến mặt bằng giá của nền kinh tế. Thực tế đã có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, dù chiếm một tỷ trọng nhỏ trong chi phí của hoạt động sản xuất và trong chi phí sinh hoạt của người dân, nhưng “tác động nhiều vòng” của việc tăng giá điện đến lạm phát và tăng trưởng kinh tế là “không nhỏ”, chưa kể đến những “tác động tâm lý”.

Nguyên nhân thứ ba được chỉ ra là do giá dịch vụ y tế và giáo dục tại một số địa phương có thể tiếp tục phải điều chỉnh theo lộ trình. Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng giá dầu thô trên thế giới gia tăng, tác động đến giá xăng dầu trong nước…

Năm 2013, nhiều chuyên gia kinh tế đã dự báo nền kinh tế đã chạm đáy và bắt đầu phục hồi. Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu vui, các chuyên gia vẫn tỏ ra lo ngại trước nguy cơ cái vòng luẩn quẩn chống lạm phát lại giảm phát, đến khi chống giảm phát lại lạm phát đã diễn ra từ năm 2007 sẽ tái diễn.

Theo tổng hợp của Vụ Dự báo Thống kê tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), có gần 90% tổ chức tín dụng tin tưởng có thể kiềm chế lạm phát năm 2013 ở mức một con số. Trong khi đó, việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý được đánh giá là rủi ro lớn nhất ảnh hưởng tới việc kiểm soát lạm phát trong năm 2013... Các tổ chức tín dụng dự kiến tiếp tục tập trung vốn cho các ngành, lĩnh vực quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời hạn chế cấp tín dụng cho đầu tư kinh doanh bất động sản và chứng khoán.

Tuy nhiên, theo dõi mức độ đồng biến của chỉ số lạm phát của Việt Nam với mức tăng giá chung của hàng hóa thế giới trong 6 năm trở lại đây cho thấy, tín hiệu gia tăng trở lại của hàng hóa thế giới trong năm 2013 có thể tác động xấu đến nỗ lực kiềm chế lạm phát của Việt Nam dưới một con số.


Đức Minh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 114,900 117,200
AVPL/SJC HCM 114,900 117,200
AVPL/SJC ĐN 114,900 117,200
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 08/06/2025 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 113.600
TPHCM - SJC 114.900 117.200
Hà Nội - PNJ 111.000 113.600
Hà Nội - SJC 114.900 117.200
Đà Nẵng - PNJ 111.000 113.600
Đà Nẵng - SJC 114.900 117.200
Miền Tây - PNJ 111.000 113.600
Miền Tây - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 117.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 113.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 113.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 112.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 112.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 111.970
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 84.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 66.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 47.160
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 103.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 69.080
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 73.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 76.990
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 42.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 37.440
Cập nhật: 08/06/2025 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,990 11,410
Trang sức 99.9 10,980 11,400
NL 99.99 10,740
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 11,470
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 11,470
Miếng SJC Thái Bình 11,490 11,720
Miếng SJC Nghệ An 11,490 11,720
Miếng SJC Hà Nội 11,490 11,720
Cập nhật: 08/06/2025 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16380 16648 17235
CAD 18487 18764 19394
CHF 31053 31431 32090
CNY 0 3530 3670
EUR 29048 29317 30362
GBP 34416 34807 35772
HKD 0 3188 3392
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15946
SGD 19657 19938 20475
THB 710 773 827
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26240
Cập nhật: 08/06/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 08/06/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 08/06/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 08/06/2025 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 08/06/2025 17:00