Người Mỹ sẽ viết lại nền kinh tế? (Bài 1)

11:59 | 08/09/2021

725 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Dường như trải qua thời gian, kinh qua khủng hoảng, chủ nghĩa tư bản ngày càng có xu hướng gần hơn với… chủ nghĩa xã hội.
Chủ nhân giải Nobel kinh tế năm 2001 khuyên nước Mỹ
Chủ nhân giải Nobel kinh tế năm 2001 khuyên nước Mỹ "viết lại nền kinh tế"

Khủng hoảng kinh tế mang tính chu kỳ là một đặc điểm của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Và, cứ sau một cuộc khủng hoảng chủ nghĩa tử bản lại mạnh thêm.

Những năm 30 của thế kỷ XX chứng kiến cuộc đại khủng hoảng thừa xảy ra ở Mỹ. Nguyên nhân do các nước tư bản chạy đua sản xuất ồ ạt mong đạt lợi nhuận siêu ngạch, sức mua không tăng như kỳ vọng dẫn đến phá sản hàng loạt.

Cuộc khủng hoảng này phản ánh mâu thuẫn giữa tư bản và tư bản, tư bản và thuộc địa, chạy đua xâm chiếm thuộc địa và các khoản chi phí khổng lồ để duy trì bộ máy cai trị khắp thế giới, đặc biệt là Mỹ, Pháp và Anh.

Sau cuộc khủng hoảng này, chủ nghĩa tư bản bắt đầu điều chỉnh cấu trúc, cái giá phải trả là cuộc chiến tranh thế giới thứ II, giới tư bản Mỹ trở nên giàu có hơn, trong khi đó các nước tư bản già như Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha mất dần vị thế.

Thế chiến II kết thúc, một loạt các quốc gia thuộc địa giành độc lập, các tổ chức đa phương quốc tế ra đời. Điều này buộc các cường quốc viết lại luật chơi theo hướng công bằng hơn. Vốn đầu tư và công nghệ thay cho súng ống, đạn dược. Về cơ bản các nước nghèo - dù độc lập nhưng đã trở thành “thuộc địa kiểu mới”.

Giai đoạn này chứng kiến “thần kỳ Nhật Bản” trở thành một cực tại châu Á - Thái Bình Dương, từ những năm 90 đến nay là các con rồng châu Á và Ấn Độ, đặc biệt là sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Qua các cuộc khủng hoảng, chủ nghĩa tư bản không hề “giãy chết”, họ vẫn cho thấy khả năng thích nghi siêu việt. Bằng chứng là các “đế quốc” “thực dân” đã khoác lên chiếc áo mới, quá khứ xâm lược, giết chóc được tẩy sạch, thay vào đó là các nhà đầu tư, phát triển, khai sáng.

Trong nội bộ các nước tư bản điển hình, ngày càng rạch ròi giữa quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế. Để tránh bị lũng đoạn, các Chính phủ ngày càng cố gắng kiểm soát nền kinh tế, lập ra nhiều doanh nghiệp, nắm những ngành chiến lược để đảm bảo vai trò lãnh đạo.

Các quốc gia tư bản Bắc Âu dường như tách ra thành một nhánh mới, họ có những nền kinh tế phúc lợi, chính phủ phúc lợi, giới chủ tư sản tôn trọng các nguyên tắc thị trường, phát triển hài hòa, bền vững.

Dường như trải qua thời gian, kinh qua khủng hoảng, chủ nghĩa tư bản ngày càng có xu hướng gần hơn với… chủ nghĩa xã hội. Điều này thực sự đã xảy ra ở Mỹ, dưới thời Tổng thống Joe Biden.

Những thay đổi mang tính hệ thống đã diễn ra ở Mỹ
Những thay đổi mang tính hệ thống đã diễn ra ở Mỹ

Chính quyền ông J. Biden thiên về kiểm soát toàn bộ, tăng thu thuế, tiến tới nắm quyền tái phân phối của cải xã hội bằng việc dùng ngân sách đầu tư cơ sở hạ tầng, đài thọ an sinh xã hội.

Đảng Dân chủ Mỹ tin rằng chính quyền nên thủ giữ một vai trò trong nỗ lực giảm nghèo và xoá bỏ những bất công xã hội, ngay cả khi điều này có nghĩa là phải dành cho chính quyền nhiều quyền lực hơn cũng như phải tăng thuế để chi trả cho các dịch vụ xã hội.

Quan điểm điều hành của đảng này ủng hộ quyền tự do dân sự, tự do xã hội, bình đẳng, cơ hội đồng đều, và hệ thống doanh nghiệp tự do được điều tiết bởi sự can thiệp của chính quyền.

Nói như vậy có nghĩa, cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc đang diễn ra do tác động to lớn của đại dịch COVID-19 cũng là một cơ hội để các nước tư bản nói riêng và toàn cầu nói chung thay đổi.

Những thay đổi ấy thoạt đầu diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, bằng việc thay đổi phương thức sản xuất, sự biến đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Bằng chứng là sự xuất hiện của ngành nghề mới, lĩnh vực mới, các thức tạo ra của cải vật chất cũng khác trước.

Cớ sao Amazon, Alibaba không sản xuất thứ gì, không có một nhà xưởng nào, không một nhân công trực tiếp nào vẫn trở thành những gã siêu giàu, nắm quyền chuỗi cung ứng?

Vì sao Uber, Grab không cần trụ sở hoành tráng, không sở hữu chiếc xe nào vẫn có thể làm thay đổi sâu sắc ngành giao thông vận tải? Vì sao các BigTech bắt đầu bị tăng cường kiểm soát gắt gao? Tất cả đều là dấu hiệu của sự thay đổi lớn.

Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ Joseph Stiglitz tin rằng, tăng cường giám sát và tăng thuế sẽ không khiến phương Tây giảm sức cạnh tranh trước các cường quốc mới nổi và Trung Quốc. “Tôi thực ra khá lạc quan rằng chương trình nghị sự mới hiện nay sẽ làm cho nước Mỹ mạnh lên”.

Còn tiếp…

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

Kịch bản nào cho kinh tế thế giới năm 2022?Kịch bản nào cho kinh tế thế giới năm 2022?
UAE thúc đẩy tăng trưởng thương mại với châu Á, châu Phi, thu hút 150 tỷ USD đầu tư nước ngoàiUAE thúc đẩy tăng trưởng thương mại với châu Á, châu Phi, thu hút 150 tỷ USD đầu tư nước ngoài
Linh hoạt trong điều hành kinh tế, xác định khó có Linh hoạt trong điều hành kinh tế, xác định khó có "Zero Covid-19"
Tác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 6) Tìm hiệu suất cao hơn trong tăng trưởngTác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 6) Tìm hiệu suất cao hơn trong tăng trưởng
Vinamilk tiếp tục khẳng định uy tín về xuất khẩu, tăng trưởng ổn định trong đại dịchVinamilk tiếp tục khẳng định uy tín về xuất khẩu, tăng trưởng ổn định trong đại dịch
Đồ uống không cồn Đồ uống không cồn "made in Vietnam" tăng trưởng gần 60% tại thị trường Úc
Tác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 4) Viễn cảnh trước mắt và trong trung hạnTác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 4) Viễn cảnh trước mắt và trong trung hạn

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,800 ▲1800K 83,800 ▲1300K
AVPL/SJC HCM 81,800 ▲1800K 83,800 ▲1300K
AVPL/SJC ĐN 81,800 ▲1800K 83,800 ▲1300K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,450 ▲300K 74,400 ▲300K
Nguyên liệu 999 - HN 73,350 ▲300K 74,300 ▲300K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,800 ▲1800K 83,800 ▲1300K
Cập nhật: 24/04/2024 10:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 81.900 ▲2100K 84.000 ▲1700K
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 81.900 ▲2100K 84.000 ▲1700K
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 81.900 ▲2100K 84.000 ▲1700K
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 81.900 ▲900K 84.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.900 ▲2100K 84.000 ▲1700K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 81.900 ▲2100K 84.000 ▲1700K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 24/04/2024 10:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,295 ▲10K 7,510 ▲10K
Trang sức 99.9 7,285 ▲10K 7,500 ▲10K
NL 99.99 7,290 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,270 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,360 ▲10K 7,540 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,360 ▲10K 7,540 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,360 ▲10K 7,540 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲100K 8,400 ▲90K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲100K 8,400 ▲90K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲100K 8,400 ▲90K
Cập nhật: 24/04/2024 10:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲1000K 84,000 ▲700K
SJC 5c 82,000 ▲1000K 84,020 ▲700K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲1000K 84,030 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 ▲200K 74,900 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 ▲200K 75,000 ▲200K
Nữ Trang 99.99% 72,900 ▲300K 74,100 ▲200K
Nữ Trang 99% 71,366 ▲198K 73,366 ▲198K
Nữ Trang 68% 48,043 ▲136K 50,543 ▲136K
Nữ Trang 41.7% 28,553 ▲84K 31,053 ▲84K
Cập nhật: 24/04/2024 10:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,098.90 16,261.52 16,783.15
CAD 18,159.20 18,342.62 18,931.01
CHF 27,214.88 27,489.78 28,371.59
CNY 3,440.60 3,475.35 3,587.37
DKK - 3,586.19 3,723.51
EUR 26,548.81 26,816.98 28,004.42
GBP 30,881.03 31,192.96 32,193.56
HKD 3,165.67 3,197.64 3,300.22
INR - 304.71 316.89
JPY 159.47 161.08 168.78
KRW 16.06 17.84 19.46
KWD - 82,400.13 85,694.10
MYR - 5,275.13 5,390.17
NOK - 2,287.26 2,384.36
RUB - 259.87 287.68
SAR - 6,766.53 7,037.03
SEK - 2,308.48 2,406.48
SGD 18,233.95 18,418.13 19,008.95
THB 609.28 676.97 702.90
USD 25,147.00 25,177.00 25,487.00
Cập nhật: 24/04/2024 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,279 16,379 16,829
CAD 18,384 18,484 19,034
CHF 27,460 27,565 28,365
CNY - 3,473 3,583
DKK - 3,603 3,733
EUR #26,788 26,823 28,083
GBP 31,316 31,366 32,326
HKD 3,173 3,188 3,323
JPY 161.04 161.04 168.99
KRW 16.79 17.59 20.39
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,294 2,374
NZD 14,872 14,922 15,439
SEK - 2,306 2,416
SGD 18,256 18,356 19,086
THB 636.99 681.33 704.99
USD #25,180 25,180 25,487
Cập nhật: 24/04/2024 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,185.00 25,187.00 25,487.00
EUR 26,723.00 26,830.00 28,048.00
GBP 31,041.00 31,228.00 3,224.00
HKD 3,184.00 3,197.00 3,304.00
CHF 27,391.00 27,501.00 28,375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16,226.00 16,291.00 16,803.00
SGD 18,366.00 18,440.00 19,000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18,295.00 18,368.00 18,925.00
NZD 14,879.00 15,393.00
KRW 17.79 19.46
Cập nhật: 24/04/2024 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25248 25248 25487
AUD 16377 16427 16932
CAD 18425 18475 18931
CHF 27657 27707 28272
CNY 0 3477.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 27002 27052 27755
GBP 31445 31495 32163
HKD 0 3140 0
JPY 162.37 162.87 167.38
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0371 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14921 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18512 18562 19119
THB 0 649.6 0
TWD 0 779 0
XAU 8150000 8150000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 24/04/2024 10:45