Nghề "cạp đất mà ăn" bên dòng Cổ Chiên

15:00 | 23/10/2023

239 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Công nhân làng gạch ở Vĩnh Long có ít nhất 10 năm làm nghề. Họ là những người không trình độ, không bằng cấp, thậm chí không biết cách đánh vần họ tên của mình, làm ngày nào ăn ngày đó.
Ngôi làng kỳ lạ, con trai 10 tuổi đã mê dệt vảiNgôi làng kỳ lạ, con trai 10 tuổi đã mê dệt vải
Làng nghề xanh hóa nhờ công nghệLàng nghề xanh hóa nhờ công nghệ
Thiếu nguyên liệu sản xuất sẽ hạn chế sự phát triển của làng nghềThiếu nguyên liệu sản xuất sẽ hạn chế sự phát triển của làng nghề
Chiêm ngưỡng “Làng nghề Hà Nội và vẻ đẹp mọi miền Tổ quốc” qua ảnhChiêm ngưỡng “Làng nghề Hà Nội và vẻ đẹp mọi miền Tổ quốc” qua ảnh
Nghề

Lặn múc đất sét bán cho lò gạch

Tiếng máy ghe cập bến như báo hiệu cho những người công nhân đã hết nửa ngày công, ông Huỳnh Văn Thía (56 tuổi) khoác vội chiếc áo để vạt ngắn vạt dài, nhanh chóng đưa đất từ ghe lên láng, áng chừng hơn 2 khối để chuẩn bị nung.

"Hồi trước, tôi làm nghề lặn múc đất sét bán cho lò gạch. Tôi chở một xuồng được khoảng nửa khối đất, bán 3.000-4.000 đồng/xuồng. Dầm trong nước từ sáng sớm đến tối được 3-4 xuồng, thu nhập mấy chục ngàn một ngày. Bây giờ lớn tuổi rồi nên tôi không làm nổi, lên bờ làm", ông Thía vừa uống ngụm nước đá lạnh rồi kể về nghề mưu sinh của mình.

Cứ lên khuôn được một viên gạch, ông Thía sẽ được trả 50 đồng tiền công. Mỗi ngày, ông có thể kiếm được 150.000-200.000 đồng. Tuy nhiên, 3-4 ngày chủ lò mới gọi ông đi làm một lần.

"Người ta nói "cạp đất mà ăn" là đúng. Nhiều người ở đây cũng nhờ cạp đất mà có cái ăn, cái mặc", ông Thía thở dài trước cảnh làm công nhân gần nửa đời người.

Từ tỉnh lộ 902 vào một con đường đất dài hàng chục cây số đi qua nhiều ấp, xã thấy nhiều lò nung đất sừng sững. Mỗi lò cao chừng 6m, nhuốm rêu phong qua thời gian. Trong bán kính 1km, 10 lò gạch nung chỉ còn khoảng một vài lò giữ lửa (Ảnh: Bảo Trân).
Từ tỉnh lộ 902 vào một con đường đất dài hàng chục cây số đi qua nhiều ấp, xã thấy nhiều lò nung đất sừng sững. Mỗi lò cao chừng 6m, nhuốm rêu phong qua thời gian. Trong bán kính 1km, 10 lò gạch nung chỉ còn khoảng một vài lò giữ lửa (Ảnh: Bảo Trân).

Ông chia sẻ, ngày xưa tiền công khoảng 30.000 đồng nhưng thời đó ông mua được cá, mắm. Bây giờ ông phải lo thêm nhiều miệng ăn trong nhà. Sinh kế kiếm tiền khó khăn nên việc ăn uống cũng phải tằn tiện hơn.

Hơn 20 năm làm công nhân lò gạch nhưng cả đời làm trụ cột gia đình, ông Thía kể bữa cơm nhà 5 người ăn có lúc chỉ ăn với canh rau suông bỏ nhiều bột ngọt để có mùi như thịt, cá.

Ông Nguyễn Văn Buôl (60 tuổi, nghệ nhân gốm đỏ có tiếng ở Vĩnh Long) cho biết, nhờ phù sa từ sông Mê Kông chảy về cùng với trầm tích dưới dòng Cổ Chiên, tỉnh Vĩnh Long có nguồn đất sét tốt mà theo ông đó là "của trời cho duy nhất tại nơi này".

Còn công nhân làng gạch Mang Thít (Vĩnh Long) có thâm niên ít nhất 10 năm làm nghề. Họ là những người không trình độ, không bằng cấp, thậm chí không biết cách đánh vần họ tên của mình, làm ngày nào ăn ngày đó.

Theo ông Thía, một viên gạch, công nhân sẽ được chủ lò trả 50-100 đồng (Ảnh: Bảo Trân).
Theo ông Thía, một viên gạch, công nhân sẽ được chủ lò trả 50-100 đồng (Ảnh: Bảo Trân).

Những "ông Táo" giữ lửa ở 1.000 độ C

Cùng làm công nhân lò gạch, công việc của ông Phạm Văn Bé Năm (62 tuổi) lại không giống với ông Thía. "Họ nghỉ sớm hơn tôi, tôi phải thức sáng đêm canh gác lò. Công việc có nhẹ nhàng hơn mấy khâu khác nhưng phải thức đêm", ông Năm nói.

Nghề
Nghề

Theo ông Năm, trong 10 công nhân ở một lò thì có 2-3 người canh lửa. Họ được ví như những "ông Táo", với công việc chỉ ở một chỗ. Họ lập ra những trang thờ "ông Táo lò" mà trong niềm tin của những người làm nghề sẽ được thần linh che chở, mọi khó khăn sẽ qua.

"Hồi xưa vừa canh lò vừa chạy cối (bỏ đất vô cối để tạo thành viên gạch) thu nhập 2-3 việc. Còn bây giờ, ngày làm ngày nghỉ. Một người vừa canh lò vừa chạy cối làm hết 8 tiếng được 120.000-180.000 đồng", ông Năm chia sẻ.

Đất được tạo thành hình viên gạch, được phơi khô trước khi nung ra thành phẩm (Ảnh: Bảo Trân).
Đất được tạo thành hình viên gạch, được phơi khô trước khi nung ra thành phẩm (Ảnh: Bảo Trân).

Khác với dòng gốm tráng men, gốm ở Vĩnh Long là gốm mộc, lên màu nhờ quá trình nung chứ không qua xử lý. Đất thế nào, gạch thế ấy, nhờ sức nhào nặn mà dân địa phương biến đó thành cái nghề.

Đất sét được phơi khô cho đến khi sẫm màu, công nhân sẽ xếp gạch vào lò nung một cách đồng nhất để sức nóng được lan tỏa và nung liên tục 3-5 ngày. Thợ canh lò cứ 15-20 phút cho thêm trấu vào đốt đến khi nhiệt độ đạt khoảng 1.000 độ C thì ngưng lửa và chờ nguội gạch để lấy thành phẩm.

Bà Trương Thị Hảo (58 tuổi, chủ một lò gạch) cho biết, gạch ở vùng đất Mang Thít từng chiếm lĩnh thị trường ở nhiều tỉnh bởi đặc tính dị biệt của nó. Gạch khi nung chín màu đỏ cam dù không trộn bất kỳ nguyên liệu nào; chất gạch rắn, chắc, khi gõ lên sẽ nghe đanh, không bọng.

"Giá trấu được giao đến tận nơi 5.000 đồng/kg. Chi phí nhiên liệu cao, cộng thêm các phần phụ khác như phí vận chuyển, tiền công nhân, thành phẩm một viên gạch thủ công vừa nung lâu vừa bị đội vốn nên làm gạch không lời, nhiều người vì vậy mà bỏ nghề", bà Hảo tâm sự.

Nghề làm gạch khó khăn, vất vả nhưng đã nuôi sống nhiều gia đình ở vùng đất Mang Thít, Vĩnh Long (Ảnh: Bảo Trân).
Nghề làm gạch khó khăn, vất vả nhưng đã nuôi sống nhiều gia đình ở vùng đất Mang Thít, Vĩnh Long (Ảnh: Bảo Trân).

Theo bà Hảo, 1-2 năm trở lại đây nhiều công nhân thất nghiệp ở TP HCM về lò gạch xin làm nghề nhưng do lao động địa phương đang chắc tay nên bà chỉ tuyển 1-2 người xếp gạch.

"Ngày xưa mỗi việc một việc như chạy cối, vào khuôn, canh. Nay do sức mua gạch giảm nên một người làm 2-3 công việc", bà Hảo nói và cho biết công nhân làm lò gạch hầu hết có cuộc sống khó khăn nên phải nhận lương theo ngày. Hàng chục năm qua, chính nghề này đã cưu mang cuộc sống của những người trong gia đình họ.

Theo Dân trí