Lưu Quang Vũ: Người “bình thường” có sức lao động nghệ thuật phi thường

06:30 | 14/09/2013

2,022 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Vào dịp kỷ niệm Ngày Sân khấu Việt Nam lần thứ IV năm nay (16/9 tức 12/8 âm lịch) tại Hà Nội đang diễn ra một sự kiện văn hóa đặc biệt là Liên hoan các vở diễn của tác giả Lưu Quang Vũ nhân kỷ niệm 25 năm ngày mất của đôi vợ chồng nghệ sĩ tài hoa Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh cùng cháu Quỳnh Thơ, con chung của họ (1988-2013).

Nhà văn Ngô Thảo (Năng lượng Mới số 256)

Có 12 vở diễn thuộc nhiều kịch chủng chèo, cải lương, kịch dân ca Huế, kịch nói dựng theo 9 kịch bản, trong đó đã có ba vở cùng lúc được hai đoàn dàn dựng là “Hồn Trương Ba -  da Hàng thịt”, “Trái tim trong trắng” (tức 2.000 ngày oan trái)và “Điều không thể mất”. Có thể xem đó là bức tranh thu hẹp các đặc điểm của sân khấu Lưu Quang Vũ.

Chúng ta đều biết trong vòng 10 năm cuối đời anh viết được hơn 50 kịch bản, nhiều vở được nhiều đoàn nghệ thuật ở nhiều địa phương thuộc nhiều kịch chủng khác nhau cùng lúc dàn dựng. Đó là một thời kỳ huy hoàng của sân khấu Việt Nam thời hiện đại. Các vở diễn sân khấu như bộ ba “Bài ca giữ nước” của Tào Mạt; “Nhân danh công lý” của Võ Khắc Nghiêm - Doãn Hoàng Giang; “Mùa hè ở biển” của Xuân Trình; “Em đẹp dần trong mắt anh” của Tất Đạt và “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ không phải là con đẻ của không khí đổi mới mà là tác nhân tham gia tích cực và trực diện vào không khí đổi mới của xã hội.

Lưu Quang Vũ

Cả nước năm 1985 còn có 156 đơn vị sân khấu thuộc đủ các kịch chủng. Hằng đêm, khán giả cả nước nô nức tới các điểm diễn sân khấu. Riêng tác giả Lưu Quang Vũ có tên trên gần trăm panô giới thiệu tiết mục, bởi đó là một tác giả đang được khán giả cả nước ái mộ. Nghĩa là mỗi hoàng hôn có hàng ngàn người thuộc các thành phần trong gần trăm đơn vị nghệ thuật ấy náo nức chuẩn bị cho đêm diễn; hàng chục vạn khán giả hào hứng tới các điểm diễn từ thành thị tới nông thôn để buồn vui, khóc cười với các nhân vật là sản phẩm sáng tạo của chỉ một con người, mà đó là người “đương thời” của họ. Cho đến nay trong hồ sơ đã và đang đăng ký xét NSND, NSƯT của hàng trăm nghệ sĩ có ghi tên các nhân vật trong kịch Lưu Quang Vũ mà họ từng diễn rất thành công.

25 năm, 1/4 thế kỷ là một thời gian không ngắn. Bao nhiêu sự kiện ngỡ là quan trọng, bao nhiêu nhân vật và tác phẩm được chú ý một thời giờ đã chìm vào quên lãng. Thế mà một đợt liên hoan có hơn mười đơn vị tham gia, mà đó chưa phải đã là tất cả những vở đặc sắc của tác giả, mách bảo rằng, những sáng tạo của Lưu Quang Vũ vẫn còn có sức sống vượt thời gian.

Mà kịch bản sân khấu chỉ là một phần trong những sáng tác của tác giả mất ở tuổi 40 này. Theo tác giả và bạn bè, thơ mới là phần sáng tác thành công và được tác giả dành nhiều tâm huyết nhất. Vũ còn có nhiều truyện ngắn, hàng trăm bài viết chân dung các diễn viên và nghệ sĩ khác rất đặc sắc, một phần đã được in thành sách. Thời gian càng làm sáng lên những giá trị mà Lưu Quang Vũ đã sáng tạo trong cuộc đời không dài, không có nhiều thuận lợi, không được chuẩn bị chu đáo của mình. Và đó là điều nhiều năm qua tôi hằng suy nghĩ.

Lưu Quang Vũ được sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn chương. Ông Lưu Quang Thuận thân sinh của anh là một nhà văn, một nhà hoạt động về văn hóa và tham gia tích cực vào các hoạt động sân khấu. Vũ được sinh ra ở trên rừng Việt Bắc, nhưng về Hà Nội sau giải phóng 1954 mới bắt đầu đi học. Cậu học sinh thông minh và sớm bộc lộ năng khiếu thơ ca này không phải là một học sinh mẫu mực. Năm 1965, khi cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ lan ra cả nước, mà ấn tượng trực tiếp nhất là việc Mỹ ném bom vào một hiệu thuốc Tây ở phố Huế ngay gần nhà, chưa tốt nghiệp lớp 10, Vũ đã khai man để đủ tuổi đi bộ đội. Với hồn thơ phơi phới của tuổi 17, với chí lớn được hun đúc qua hàng trăm cuốn truyện hay nhiều thời, nhiều xứ, được giới thiệu  trong những năm hòa bình đẹp đẽ ở thủ đô, Vũ đã có nhiều bài thơ được in và nhận được sự đánh giá cao của dư luận chính thống đương thời. Là một nhà phê bình thơ có uy tín lớn, không mấy khi quan tâm đến lớp làm thơ trẻ, mà thơ Vũ đã lọt cặp mắt tinh tường của nhà phê bình Hoài Thanh.

Nhưng những gì diễn ra trong chiến tranh và trong đời sống nghiêm khắc của quân đội thời chiến, lại ở một đơn vị cần một kỷ luật thép là phòng không - không quân, với một anh lính trẻ lại dính vào chuyện yêu đương, rồi sớm lập gia đình với một diễn viên trẻ xinh đẹp đang hồi nổi tiếng làm phát sinh ra biết bao là những chuyện phiền toái, mà dẫu có rộng lượng thông cảm, thì yêu cầu của chiến tranh và quân đội đã buộc phải đánh bật nhà thơ trẻ ra khỏi quân ngũ, không phải vì sút kém ý chí chiến đấu, vì lập trường tư tưởng, mà chỉ đơn giản là vi phạm kỷ luật nội vụ quá nhiều lần của đơn vị. Điều đó cắt nghĩa vì sao, ngay trong những năm tháng này thơ Vũ viết vẫn tràn đầy lòng yêu nước dẫu nhiều, rất nhiều trăn trở, day dứt trước một hiện thực diễn ra không như trong sách vở từng đọc.

Rồi tình yêu sau những ngày tháng mặn nồng, khi đối diện với một thực tế trần trụi, chuyện cơm áo, gạo tiền thời tem phiếu ngặt nghèo, tình cảm biến động, càng gần về cự ly lại càng thấy xa cách về tâm hồn, mối tình mở đầu đẹp như mơ đã tan như quả bóng vỡ khi va đập với đời sống thực. Vũ tự nhận lỗi về mình và xin tự nuôi con trai trong một bức thư gửi cho người vợ diễn viên khi cô ấy đang đi làm phim. Đó là những năm cuối của chiến tranh chống Mỹ. Bị đánh bật ra khỏi mọi tổ chức, khi mọi công dân phải được sắp xếp trong một đội hình nhất định, chàng trai ngoài 20 tuổi, mộng mơ và yếu đuối, sống những năm tháng nhọc nhằn, tủi hổ. Sách vở gia đình là một nguồn lương thực tinh thần quý vô giá nhưng cũng không thể lấp được khoảng trống có thực trong cái dạ dày bé nhỏ hằng ngày thường trực réo gọi. Một nhóm bạn bè vừa say lý tưởng sách vở vừa có phần bất đắc chí trước hiện thực khó khăn, khi cuộc chiến lâu dài, làm bộc lộ ngày càng nhiều những hiện tượng tiêu cực.

Rồi những cuộc rượu nhạt, trà suông của đám bạn văn chương Đào Trọng Khánh, Lâm Râu, Nguyễn Khắc Phục, Lâm Quang Ngọc, Trần Kim Thành, Thanh Tùng… An ủi động viên nhau cũng nhiều, mà quấy quả làm buồn lòng nhau cũng không ít. Rồi chiến trường và công việc lôi cuốn đi hết người này đến người khác, còn trơ lại Vũ với vài ba người bạn. Mối tình mới với Nguyễn Thị Hiền, cô bạn họa sĩ tài hoa với nhiều phen hẹn hò hồi hộp nhưng hình như không nhận được nhiều sự ủng hộ của người thân, nên không tiến được đến một gia đình. Mà có lẽ nhờ thế, nhiều năm sau họ còn nhớ đến nhau với những ấn tượng và kỷ niệm đẹp.

Cảnh trong vở "Hồn Trương Ba - da hàng thịt"

Những ngày cuối năm 1973, giới văn nghệ Hà Nội xôn xao về một sự kiện được coi là quá bất thường: Nữ sĩ Xuân Quỳnh yêu Lưu Quang Vũ. Trong nhật ký ghi ngày 7/11/1973 của tôi còn có mấy dòng: Có một cái gì như quá đột ngột với nhiều người: Xuân Quỳnh yêu Lưu Quang Vũ. Hai người đang sống với nhau những ngày đầu của một tình yêu còn lại: Anh bỏ vợ, chị cũng đã chia tay chồng. Nhà thơ Bằng Việt cho rằng, trong việc này có một cái gì như một sự kiện không thể hiểu nổi (Xuân Quỳnh hơn Lưu Quang Vũ 6 tuổi). Nhiều người cũng nghĩ như thế, Xuân Quỳnh gặp nhiều người đều có ý né tránh, không đon đả, vui tươi hồn nhiên như vốn có… Và ai cũng nghĩ: Họ sẽ đi đến đâu? Họ có cưới nhau không? Cưới nhau rồi, có còn làm thơ hay được như trước không? Liệu có sống được với nhau đến ngày đầu bạc? Ở đâu cũng có hai câu trả lời trái ngược. Và đó chính là đời sống. Chẳng ai có thể biết hết mọi việc từ trước dù đó là những việc bình thường nhất như chuyên tình yêu (trích “Dĩ vãng phía trước”).

Cùng với thời gian, chúng ta hiểu hơn con người của nhà thơ Xuân Quỳnh. Xinh đẹp, tài hoa, là một nghệ sĩ múa, không được học hành chu đáo, nhưng là một hồn thơ nồng hậu, tinh tế với sức sáng tạo bền bỉ. Trong tình yêu với Vũ có sự say đắm, nhưng cũng đầy tận tụy và chu đáo của một phụ nữ có ý thức nghiêm cẩn về một gia đình không đơn giản, vì có cả con anh, con tôi, con chúng ta, Vũ lại có cả một gia đình còn bố mẹ và khá đông đúc các em. 

Cho đến ngày giải phóng năm 1975, Vũ vẫn lang thang tìm việc ở nhiều nơi, từng làm nhiều nghề, từ vẽ áp phích, chữa bản in sách, làm vợt bóng bàn ở xưởng ông Tạ Đình Đề… nhưng với lý lịch một anh lính bị loại ngũ, không tem phiếu, chưa có bằng tốt nghiệp phổ thông, không nơi nào có thể tiếp nhận chính thức. Nhiều năm, từ một chỉ thị ở đâu đó, thơ văn của Vũ tuyệt đối không sách báo nào được in. Phải mấy năm sau ngày giải phóng, năm 1977, Hội Sân khấu Việt Nam xin phép xuất bản tờ Tạp chí Sân khấu, cơ quan ngôn luận của Hội. Sau nhiều biến động về nhân sự, đến lượt nhà văn - nhà viết kịch Xuân Trình, vốn là biên tập viên lâu năm của Báo Văn Nghệ thuộc Hội Nhà văn Việt Nam được phân công phụ trách tạp chí. Vợ chồng ông Lưu Quang Thuận đang là cán bộ văn phòng Hội Sân khấu nhưng cũng không thể mở lời xin cho con, vì so với tiêu chuẩn tối thiếu của một cán bộ Nhà nước, dẫu là thuộc hội, thì Vũ không đạt bất cứ yêu cầu nào: Từ học vấn, tư cách, lý lịch công tác…

Theo câu chuyện đáng tin cậy của vài người bạn thân thiết dạo ấy, nhà văn Xuân Trình là một người hào sảng, khá phóng khoáng, từng có vài mối tình với các nữ  sĩ trong giới. Xuân Quỳnh, cùng làm việc ở báo Văn Nghệ cũng là người trong tầm ngắm của nhà văn. Nhưng vốn tính sòng phẳng và thẳng thắn, Xuân Quỳnh bộc lộ: Nếu anh yêu quý em thật lòng và mong em hạnh phúc thì anh phải giúp anh Vũ cho em, vì chính Vũ là hạnh phúc lớn nhất của đời em. Là một đấng trượng phu thứ thiệt, Xuân Trình đã góp sức đắc lực cho việc nhận Vũ vào Tạp chí Sân khấu vốn còn ít người. Một công việc hoàn toàn không dễ dàng hồi bấy giờ. Vì đơn giản là Vũ yếu thế về mọi mặt, ngoài năng lực làm thơ, mà sở trường ấy không cần cho một tờ tạp chí chuyên ngành. Trong lãnh đạo các cấp và trong nội bộ cơ quan, phản ứng còn mạnh hơn, vì những gì thuộc về Vũ được đánh giá là một người dười mức trung bình, không được là người bình thường, mà nói trắng ra là thuộc loại tầm thường. 

Ấy thế mà, vượt qua tất cả mọi trở ngại, bằng sự nỗ lực bản thân, với vốn sống, những tích lũy suy ngẫm từ nhiều năm tháng lăn lóc nơi đáy tận cùng của cuộc sống, với vốn văn hóa tích lũy từ sức đọc nhiều năm và coi nó như một liều thuốc, như một thứ lương thực vật chất để lấp đầy sự trống thiếu của đời sống thực tế, Vũ bắt đầu viết báo về sân khấu. Buổi đầu, dưới các bài viết giới thiệu chân dung các nghệ sĩ, các vở diễn phải ký các bút danh, hay chỉ một chữ V. Vậy mà trong có vài năm, cùng bài viết của Xuân Quỳnh, Vương Trí Nhàn, đã ra được một tập sách dày dặn về chân dung các nghệ sĩ - diễn viên sân khấu, mà không chỉ sân khấu. Có lẽ, đây cũng là thời gian Vũ bắt đầu có ý thức nghiên cứu học tập nghiêm túc về nghệ thuật mà yêu cầu mưu sinh buộc anh phải gắn bó này.

Trong giới còn tồn tại một giai thoại, khi thấy Vũ về Tạp chí Sân khấu, vốn là đồng đội ở cùng Binh chủng Phòng không - Không quân, nhà văn Đỗ Chu, trong một dịp đàm đạo, với giọng kẻ cả, đã động viên Vũ: “Viết văn thì có cố gắng, cậu cũng không thể viết hay bằng tớ, làm thơ cậu cũng khó vượt thằng Phạm Tiến Duật. Giờ chỉ còn có kịch là trong cánh ta chưa có ai. Cậu chọn kịch nhất định thành công”. Không biết có bao nhiêu sự thật trong giai thoại đó, nhưng chỉ trong vòng vài năm Vũ đã thành một nhà viết kịch thực thụ. Con đường cũng không dễ dàng. Những vở kịch đầu tiên, các đạo diễn Phạm Thị Thành, Nguyễn Đình Nghi, Doãn Hoàng Giang, rồi Xuân Huyền, Lê Hùng… đã phải trực tiếp sửa chữa khá nhiều.

Cảnh trong vở "Điều không thể mất"

Nếu với đạo diễn Phạm Thị Thành, Vũ được chú ý và phát triển về số lượng, thì đạo diễn Nguyễn Đình Nghi lại đặc biệt khuyên Vũ tập trung đầu tư về chất lượng. Góp ý - sửa chữa - lại góp ý - sửa chữa nhiều lần để có một “Hồn Trương Ba - da Hàng Thịt” như bây giờ. Nguyễn Đình Nghi từng hơi phiền lòng vì sự không “chung thủy” của Vũ trong quá trình sáng tác, nhưng khi càng nổi  tiếng, Vũ càng không thể khắc phục tình trạng này. Bởi có hàng trăm đoàn nghệ thuật trong cả nước tìm về xin kịch bản của anh, sẵn sàng xin dựng lại các kịch bản đã có rồi xin kịch bản mới.

Mấy năm cuối đời, có thể nói, khi kinh tế gia đình đã được cải thiện ít nhiều, thì Vũ hầu như phải sống trong tình trạng trốn tránh sự truy đuổi rốt ráo của các đoàn trưởng đòi kịch bản. Xuân Quỳnh thành một vệ sĩ đáo để vây bọc và che giấu cho Vũ tìm nơi trú ẩn để tập trung cày kịch bản. Gầm cầu thang nhà 96 phố Huế, nơi có căn buồng 10m2 của gia đình Vũ là nơi mai phục của nhiều đoàn trưởng các đơn vị ở địa phương xa. Là người có tính cả nể, không nỡ từ chối ai, mà thời gian và sức lực có hạn, cho đến những ngày cuối đời, Vũ vẫn là một con nợ lớn với nhiều đơn vị sân khấu. Chuyến đi Đồ Sơn kết hợp nghỉ cuối tuần thực chất cũng là một chuyến đi để hoàn thành một kịch bản đã hẹn. 

Tôi còn nhớ, buổi giao ban ở cơ quan sáng thứ Hai ngày 28/8/1988, tôi nhắc biên tập viên Ngô Thế Ngọc (nay là Giám đốc Nhà xuất bản - Tổng biên tập Tạp chí Sân khấu) sang nhà đòi bản thảo tập sách “Chân dung diễn viên” mà Vũ đã ký hợp đồng và tạm ứng tiền từ một năm trước. Cuối giờ chiều, nhận hung tin Vũ bị tai nạn, tôi cùng Tổng biên tập Xuân Trình và anh em ở cơ quan Hội và Tạp chí lao xe về Hải Dương. Trên xe, còn tính toán làm sao để báo tin này cho Xuân Quỳnh và liệu Xuân Quỳnh tiếp nhận tin này ra sao với trái tim đang bệnh nặng?

Nhưng nỗi lo của chúng tôi là thừa, khi mà tới nơi, thấy Xuân Quỳnh và cháu Quỳnh Thơ đang nằm đắp chiếu bên triền ruộng chờ khám nghiệm hiện trường, còn Vũ mất trên đường đưa về Bệnh viện Hải Dương cấp cứu. Nhờ bà con địa phương mua hương hoa và rượu, về tắm rửa sơ qua và thay quần áo cho từng người. Vết thương ở Vũ nặng hơn. Còn hai mẹ con Xuân Quỳnh mặt mũi nguyên vẹn. Phải 12 giờ đêm đó, xe chở thi thể họ mới về đến Bệnh viện Việt - Đức, nơi đang có hàng trăm nghệ sĩ sân khấu nghe tin đau tới đón chờ. Không có phòng lạnh, NSND Đình Quang, bấy giờ là Thứ trưởng Bộ Văn hóa liên hệ được với Bệnh viện Việt - Xô gửi nhờ để chờ tang lễ. Giới sân khấu, mà không chỉ giới sân khấu đã tổ chức một đám tang trang trọng và cảm động để tiễn đưa đôi nghệ sĩ tài hoa cùng con chung của họ về nơi an nghỉ chung trong Khu A nghĩa trang Văn Điển.

Đêm đó, sau khi cùng đông đảo bạn hữu đưa họ vào nhà xác Bệnh viện Việt - Xô, tôi được NSND Dương Ngọc Đức, Tổng thư ký Hội giao việc thảo điếu văn. Việc tưởng đơn giản mà không dễ chút nào. Về mặt hành chính, Lưu Quang Vũ mới chỉ cán sự ba, với một tiểu sử không mấy sáng sủa. Nhưng với giới sân khấu cả nước, thì chúng ta vừa mất đi một tác giả lớn, hàng chục đoàn đang dựng vở theo các kịch bản của anh. Khoảng trống anh để lại không có ai lấp được, nhưng không phải ai cũng đánh giá cao các vở diễn đó. Đố kỵ, ghen ghét cũng có mà lập trường tư tưởng cũng có. Tôi đã chọn ra hình tượng: Lưu Quang Vũ là một người lao động nghệ thuật lực lưỡng gồng trên đôi vai rộng khỏe của mình tiết mục của hơn 50 đoàn sân khấu trong cả nước. Chắc điều đó không ai phản bác được. Lưu Quang Vũ cũng là người đầu tiên trong lớp chống Mỹ được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Hàng chục năm sau khi Vũ mất, đọc ở đâu đó một câu nói của F.Mitteran, nhà văn hóa, nguyên Tổng thống Pháp: “Lang bang và phóng túng là bản tính của nghệ sĩ, tôi mới nghiệm ra, Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đích thực. Bởi mặc dầu tất cả những sự không hoàn hảo của một con người, trong thời gian không dài lắm của một kiếp người, nhưng những sáng tạo cũng không phải hoàn hảo lắm của người nghệ sĩ đã góp vào làm giàu cho vốn văn nghệ của đất nước, và trên những tác phẩm đó ghi rất rõ những dấu ấn mà thời đại chúng ta đã và đang sống”.

Rất nhiều các tác phẩm của Lưu Quang Vũ đã làm sôi động sân khấu Việt Nam như: “Hồn Trương Ba - da hàng thịt”, “Lời thề thứ 9”, “Bệnh sĩ”, “Khoảnh khắc và vô tận”, “Ông không phải bố tôi”, “Tôi và chúng ta”, “Tin ở hoa hồng”, “Nàng Sita” và được trao tặng Huy chương Vàng ở nhiều hội diễn sân khấu. Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về văn học nghệ thuật. Ngoài ra, rất nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích như: “Và anh tồn tại”, “Tiếng Việt”, “Vườn trong phố”, “Bầy ong trong đêm sâu”... Ông còn là tác giả của nhiều truyện ngắn mang đậm phong cách riêng.

Các tác phẩm của Lưu Quang Vũ: Tập thơ “Hương cây” (1968 - in cùng Bằng Việt trong tập “Hương cây - Bếp lửa”), “Mây trắng của đời tôi” (1989), “Bầy ong trong đêm sâu” (1993).


Nhà văn Ngô Thảo

Những địa điểm check-in thú vị ở Bình Định

Những địa điểm check-in thú vị ở Bình Định

(PetroTimes) - Không chỉ được ưu ái với thiên nhiên hùng vĩ, nên thơ, Bình Định còn ghi dấu với loạt câu chuyện lịch sử, văn thơ và nền văn hóa độc đáo...