Kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục có sự phục hồi từ quý IV/2023?

08:35 | 11/10/2023

71 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Các chỉ báo kinh tế vẫn cho thấy Việt Nam đang ở cuối chu kì suy thoái. Nền kinh tế sẽ sẵn sàng bước vào chu kỳ phục hồi trong quý IV/2023.
Kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục có sự phục hồi từ quý IV/2023.
Kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục có sự phục hồi từ quý IV/2023.

Giải ngân đầu tư công 9 tháng vượt 50%

Trong báo cáo mới đây, Công ty Chứng khoán DSC cho biết, tính tới hết tháng 9/2023, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công từ nguồn ngân sách Nhà nước trên toàn quốc ước đạt hơn 363 nghìn tỷ đồng, đạt 51,3% kế hoạch Chính phủ giao. Tỷ lệ này cao hơn khá nhiều so với cùng kỳ năm 2022 (46,7%), tương đương khoảng hơn 110.000 tỷ đồng xét về giá trị tuyệt đối.

DSC cho rằng, đây là tín hiệu đáng tích cực trong việc giải ngân vốn đầu tư công bởi mặc dù tổng vốn Chính phủ giao trong năm nay là rất lớn nhưng tỷ lệ giải ngân vẫn tăng trưởng so với cùng kỳ năm ngoái và là năm đầu tiên tỷ lệ giải ngân 9 tháng đầu năm vượt mức 50%.

“Đầu tư công là một công cụ chính sách tài khóa hữu hiệu, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công sẽ tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng trưởng chậm và cần thêm nhiều “vốn mồi” để kích thích đầu tư”, DSC đánh giá.

Kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục có sự phục hồi từ quý IV/2023?

Dẫn số liệu từ Tổng Cục thống kê, DSC cho biết, lũy kế 9 tháng đầu năm 2023, tỷ lệ giải ngân của TP HCM đạt 42,2% trên tổng số vốn được giao là hơn 70.000 tỷ đồng. Trong khi đó, tốc độ giải ngân của Hà Nội khả quan hơn ở mức 57,7%. 2 thành phố trực thuộc Trung ương còn lại là Hải Phòng và Cần Thơ đều duy trì được tốc độ giải ngân vốn tốt, lần lượt đạt 57,5% và 67,7%, cao hơn so với trung bình cả nước.

DSC kỳ vọng, Hà Nội và TP HCM sẽ đẩy nhanh được tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công trong 3 tháng cuối năm 2023, nhờ các đại dự án lớn như đường Vành đai 3 TP HCM và Vành đai 4 TP HCM.

Trong khi đó, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) tiếp tục duy trì tốc độ giải ngân ở mức tốt, lũy kế 9 tháng đầu năm 2023 đạt 56.631 tỷ đồng, đạt 61,9% kế hoạch được giao. Hiện nay các dự án giao thông trọng điểm như cao tốc Bắc-Nam 2 giai đoạn, Dự án bồi thường, tái định cư sân bay Long Thành vẫn đang có tiến triển tốt. Tuy nhiên với tổng số vốn được giao trong năm nay lên tới hơn 95.000 tỷ đồng, DSC cho rằng, áp lực giải ngân trong nhưng tháng cuối năm của Bộ GTVT vẫn là rất lớn.

Về hoạt động doanh nghiệp, theo DSC, trong tháng 9, số doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động đạt 18.492 doanh nghiệp, gần như không đổi so với tháng trước. Trong khi đó, số doanh nghiệp tạm dừng kinh doanh, chờ và đã giải thể đạt 10.838 doanh nghiệp giảm 8% so với tháng trước.

Kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục có sự phục hồi từ quý IV/2023?

Tính chung 9 tháng năm 2023, cả nước có 116 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.086 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 748,9 nghìn lao động, tăng 3,1% về số doanh nghiệp, giảm 14,6% về vốn đăng ký và giảm 1,2% về số lao động so với cùng kỳ năm trước.

Cũng trong 9 tháng này, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 75,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm trước; 46,1 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 26,9%; 13,2 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 4,3%. Bình quân một tháng có 15 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

“Tuy lạm phát giảm nhẹ nhưng nền kinh tế chưa thực sự phục hồi là lý do cho sự giảm sút về số doanh nghiệp đăng kí mới. Quy mô sản xuất cũng như PMI quay trở lại mức thu hẹp càng thể hiện rõ hơn về môi trường doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”, DSC đánh giá.

Sẽ bước vào pha hồi phục trong phần cuối năm 2023

Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI), DSC cho biết, lũy kế 9 tháng đầu năm, vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt 20,21 tỷ USD, tăng 7,7% so với cùng kỳ. Xét về mặt giải ngân, FDI thực hiện đạt 15,9 tỷ USD (cao nhất giai đoạn 2018-2023).

Kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục có sự phục hồi từ quý IV/2023?

Xét về cơ cấu ngành thu hút FDI, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt gần 14 tỷ USD, tăng 15,5% và chiếm xấp xỉ 69,3% tổng vốn đầu tư đăng ký. Vốn FDI rót vào ngành Bất động sản giảm mạnh nhưng vẫn giữ vị trí thứ 2 với 1,94 tỷ USD, giảm 45% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 9,6% tổng vốn đầu tư đăng ký.

Về đối tác, 6 nhà đầu tư truyền thống đến từ Châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn (Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan…); chiếm 78,8% tổng vốn đầu tư cả nước. Về địa phương, Hà Nội tiếp tục dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 2,34 tỷ USD; đứng vị trí thứ hai là Hải Phòng (2,21 tỷ USD), với loạt dự án mới nổi bật như Nhà máy vật liệu sinh học Ecovance, Nhà máy phụ tùng ô tô Daimay…

“Như vậy, tình hình thu hút FDI vẫn duy trì đà tăng trong tháng 9. Mặc dù vốn điều chỉnh giảm, nhưng xu hướng đã có sự cải thiện hơn so với tháng trước. Việt Nam vẫn được xem là “vùng đất màu mỡ” trên bản đồ thu hút đầu tư FDI với nhiều lợi thế về chi phí và vị trí”, DSC đánh giá.

Đồng thời, Công ty Chứng khoán này cũng kỳ vọng, các chuyến công du tới Hoa Kỳ, Brazil của Thủ tướng Chính phủ, sẽ giúp Việt Nam nhận được sự quan tâm lớn. Hiện tại, Việt Nam đang rất nỗ lực triển khai hàng loạt dự án hạ tầng kết nối và giảm bớt thủ tục hành chính, là tiền đề hút vốn FDI trong những tháng cuối năm.

Kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục có sự phục hồi từ quý IV/2023?

DSC cũng cho rằng, ở thời điểm hiện tại, các yếu tố vĩ mô đang chỉ ra rằng Việt Nam đang ở cuối chu kỳ suy thoái và sẽ bước vào pha hồi phục trong phần cuối năm 2023, nhờ các yếu tố sau: Số lượng đơn đặt hàng và nhu cầu tăng vượt khả năng sản xuất của một số doanh nghiệp; Tăng trưởng tín dụng vẫn rất yếu so với cùng kỳ năm trước nhưng đã cho thấy dấu hiệu tích cực sau các chính sách của ngân hàng nhà nước; Nguồn vốn FDI tiếp tục tăng trưởng ổn định; Ghi nhận tháng thứ 3 liên tiếp đón trên 1 triệu lượt khách quốc tế; Tỷ giá đang được kiểm soát; Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trên đà tăng trưởng; Lần đầu tiên tỷ lệ giải ngân 9 tháng đầu năm vượt mức 50%.

“Với kỳ vọng tỷ giá neo cao nhưng được kiểm soát sẽ giúp cho ngành xuất khẩu nở rộ, các chính sách hỗ trợ kinh tế của nhà nước phát huy hiệu quả vốn có, Tăng trưởng tín dụng có thể hồi phục trong các tháng tới để đạt mục tiêu 14% trong năm nay, chúng tôi duy trì kỳ vọng kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục có sự phục hồi từ quý IV/2023”, DSC kỳ vọng.

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

Nền kinh tế dần lấy lại đà tăng trưởngNền kinh tế dần lấy lại đà tăng trưởng
Sản xuất công nghiệp lần đầu tiên tăng trưởng dương trong năm 2023Sản xuất công nghiệp lần đầu tiên tăng trưởng dương trong năm 2023
PGS.TS Vũ Minh Khương: Chân trời mới đang mở ra, Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của một kỷ nguyên có thể cất cánhPGS.TS Vũ Minh Khương: Chân trời mới đang mở ra, Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của một kỷ nguyên có thể cất cánh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,500 ▼400K 120,500 ▼400K
AVPL/SJC HCM 118,500 ▼400K 120,500 ▼400K
AVPL/SJC ĐN 118,500 ▼400K 120,500 ▼400K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,790 ▼40K 11,200 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,780 ▼40K 11,190 ▼50K
Cập nhật: 07/07/2025 18:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
TPHCM - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Hà Nội - PNJ 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Hà Nội - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Đà Nẵng - PNJ 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Đà Nẵng - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Miền Tây - PNJ 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Miền Tây - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.200 ▼600K
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▼400K 120.500 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.200 ▼600K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.200 ▼600K 116.900 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.400 ▼700K 115.900 ▼700K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.280 ▼700K 115.780 ▼700K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.570 ▼700K 115.070 ▼700K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.340 ▼690K 114.840 ▼690K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.580 ▼520K 87.080 ▼520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.450 ▼410K 67.950 ▼410K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.860 ▼300K 48.360 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.760 ▼650K 106.260 ▼650K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.350 ▼430K 70.850 ▼430K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.990 ▼450K 75.490 ▼450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.460 ▼480K 78.960 ▼480K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.110 ▼270K 43.610 ▼270K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.900 ▼230K 38.400 ▼230K
Cập nhật: 07/07/2025 18:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,190 ▼80K 11,640 ▼70K
Trang sức 99.9 11,180 ▼80K 11,630 ▼70K
NL 99.99 10,785 ▼65K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,785 ▼55K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,400 ▼70K 11,700 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,400 ▼70K 11,700 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,400 ▼70K 11,700 ▼70K
Miếng SJC Thái Bình 11,850 ▼40K 12,050 ▼40K
Miếng SJC Nghệ An 11,850 ▼40K 12,050 ▼40K
Miếng SJC Hà Nội 11,850 ▼40K 12,050 ▼40K
Cập nhật: 07/07/2025 18:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16456 16724 17304
CAD 18592 18869 19485
CHF 32154 32536 33179
CNY 0 3570 3690
EUR 30041 30315 31346
GBP 34753 35146 36092
HKD 0 3200 3403
JPY 172 177 183
KRW 0 18 20
NZD 0 15369 15961
SGD 19909 20191 20721
THB 718 781 834
USD (1,2) 25883 0 0
USD (5,10,20) 25922 0 0
USD (50,100) 25951 25985 26330
Cập nhật: 07/07/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,970 25,970 26,330
USD(1-2-5) 24,931 - -
USD(10-20) 24,931 - -
GBP 35,152 35,247 36,133
HKD 3,272 3,282 3,381
CHF 32,493 32,594 33,409
JPY 176.99 177.31 184.82
THB 764.62 774.06 828.12
AUD 16,753 16,813 17,277
CAD 18,853 18,913 19,469
SGD 20,089 20,151 20,828
SEK - 2,686 2,779
LAK - 0.93 1.29
DKK - 4,050 4,189
NOK - 2,541 2,629
CNY - 3,597 3,695
RUB - - -
NZD 15,372 15,514 15,966
KRW 17.65 18.4 19.86
EUR 30,303 30,328 31,558
TWD 812.85 - 984.05
MYR 5,771.23 - 6,509.86
SAR - 6,855.85 7,215.59
KWD - 83,390 88,659
XAU - - -
Cập nhật: 07/07/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,980 25,980 26,320
EUR 30,170 30,291 31,420
GBP 35,002 35,143 36,137
HKD 3,266 3,279 3,384
CHF 32,311 32,441 33,373
JPY 176.53 177.24 184.60
AUD 16,700 16,767 17,308
SGD 20,129 20,210 20,762
THB 781 784 819
CAD 18,848 18,924 19,455
NZD 15,487 15,995
KRW 18.33 20.14
Cập nhật: 07/07/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25970 25970 26330
AUD 16637 16737 17302
CAD 18772 18872 19428
CHF 32390 32420 33306
CNY 0 3609.7 0
CZK 0 1190 0
DKK 0 4120 0
EUR 30334 30434 31207
GBP 35069 35119 36235
HKD 0 3330 0
JPY 176.3 177.3 183.85
KHR 0 6.267 0
KRW 0 18.9 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2590 0
NZD 0 15482 0
PHP 0 438 0
SEK 0 2760 0
SGD 20072 20202 20932
THB 0 747.4 0
TWD 0 900 0
XAU 11700000 11700000 12050000
XBJ 10800000 10800000 12050000
Cập nhật: 07/07/2025 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,970 26,020 26,290
USD20 25,970 26,020 26,290
USD1 25,970 26,020 26,290
AUD 16,746 16,896 17,960
EUR 30,464 30,614 31,784
CAD 18,790 18,890 20,198
SGD 20,183 20,333 20,802
JPY 177.56 179.06 183.64
GBP 35,229 35,379 36,156
XAU 11,819,000 11,819,000 12,121,000
CNY 0 3,495 0
THB 0 784 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/07/2025 18:00