Kinh tế Trung Quốc giảm tốc sẽ "cản bước" kinh tế ASEAN?

08:21 | 30/11/2023

96 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Triển vọng tăng trưởng của Trung Quốc đang chững lại đặt ra câu hỏi về tác động kinh tế tới khối ASEAN.
Kinh tế Trung Quốc giảm tốc sẽ "cản bước" kinh tế ASEAN? | Quốc tế
Khuân vác hàng nhập khẩu vào Móng Cái từ Trung Quốc. Ảnh: Reuters

Kể từ khi Bắc Kinh đưa ra quyết định tái cân bằng tăng trưởng kinh tế theo hướng tiêu dùng thay vì đầu tư vào năm 2007, các nhà phân tích và nhà đầu tư đã nhiều lần bày tỏ nghi ngờ về khả năng thực hiện điều đó mà không bị giảm tốc độ tăng trưởng đột ngột. Điều này là do bản chất thúc đẩy tín dụng trong nỗ lực đầu tư của Trung Quốc, đã đẩy tổng nợ lên gần 300% GDP và làm tăng các lỗ hổng tài chính.

Cho đến nay, Trung Quốc đã có thể ngăn chặn được bất kỳ cuộc khủng hoảng nào và thiết lập thể chế mạnh mẽ giúp ứng phó khủng hoảng. Nhưng cũng có rất ít tiến triển trong việc tái cân bằng.

Phần tiêu dùng trong GDP của Trung Quốc hầu như không thay đổi trong 15 năm qua. Đầu tư tiếp tục chiếm hơn 40% sản lượng kinh tế bất chấp tình trạng dư thừa công suất trong các ngành công nghiệp truyền thống.

Tuy nhiên, theo ông Priyanka Kishore, chuyên gia kinh tế tại công ty nghiên cứu Asia Decoded, mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư của Trung Quốc đang đạt đến giới hạn. Đây chính là nguồn gốc của những vấn đề hiện tại của nền kinh tế. Cùng với những rạn nứt với các đối tác xuất khẩu lớn nhất là Mỹ và châu Âu, và sự thay đổi ưu tiên từ tăng trưởng sang an ninh, xu hướng tăng trưởng của Trung Quốc đã bị che phủ trong một thời gian dài.

Tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc đã giảm hơn một nửa từ năm 2007 đến năm 2019 và có khả năng giảm xuống còn 3,5% vào cuối thập kỷ này. Với triển vọng tăng trưởng của Trung Quốc đang chững lại, điều này đặt ra câu hỏi về tác động kinh tế tới khối ASEAN. Trong phần lớn thời gian qua, các quốc gia Đông Nam Á đã được hưởng lợi từ mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc. Quan hệ thương mại và đầu tư phát triển với nước láng giềng lớn đã hỗ trợ các nước tăng trưởng và nâng cao mức sống.

Mối quan hệ thương mại của khu vực với Trung Quốc đang phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Thương mại hàng hóa song phương đã vượt 500 tỷ USD vào năm 2019. Nhưng mối quan hệ đang rơi vào tình trạng mất cân bằng, khi Đông Nam Á phụ thuộc nhiều hơn vào nhập khẩu của Trung Quốc và có mức tăng trưởng xuất khẩu ít hơn.

Ngoài Indonesia, quốc gia xuất khẩu hàng hóa được hưởng lợi từ nhu cầu nguyên liệu thô mạnh mẽ từ các ngành đang phát triển nhanh của Trung Quốc như xe điện và tấm pin mặt trời, thị phần của Trung Quốc trong tổng xuất khẩu của các nền kinh tế lớn của ASEAN đã trì trệ trong thập kỷ qua.

Điều này là do đặc điểm chính của tăng trưởng của Trung Quốc kể từ giữa những năm 2000 là sự phụ thuộc vào nhập khẩu ngày càng giảm. Tốc độ chuyển hoạt động sản xuất về nước nhanh chóng đã khiến Trung Quốc ngày càng ít phụ thuộc hơn vào các nước khác, bao gồm cả các nước láng giềng Đông Nam Á, để đáp ứng nhu cầu trong nước và vận hành chuỗi giá trị của mình.

Với việc Trung Quốc chuyển trọng tâm sang sản xuất công nghệ cao, nước này có thể bắt đầu nhập khẩu nhiều hàng tiêu dùng hơn từ các nền kinh tế ASEAN. Tại hội nghị thượng đỉnh với các nhà lãnh đạo ASEAN vào tháng 9, Trung Quốc đã cam kết tăng nhập khẩu từ khu vực.

Kinh tế Trung Quốc giảm tốc sẽ "cản bước" kinh tế ASEAN? | Quốc tế
Chi tiêu ngày càng tăng của người Trung Quốc cho du lịch mang lại cơ hội tốt cho Đông Nam Á.

Chi tiêu ngày càng tăng của người Trung Quốc cho dịch vụ cũng mang lại cơ hội tốt cho các nước láng giềng phía nam của nước này. Thái Lan, Malaysia, Singapore và các nước khác được hưởng lợi đáng kể từ lượng khách du lịch Trung Quốc tăng mạnh trong những năm trước đại dịch.

Ngoài việc trực tiếp nâng cao sự đóng góp của du lịch vào tăng trưởng của các quốc gia này, dòng du khách còn tạo ra việc làm, nâng cao thu nhập và thúc đẩy nhu cầu trong nước. Xu hướng này có thể sẽ tiếp tục và có thể tăng tốc khi những diễn biến địa chính trị khiến người Trung Quốc hạn chế đến các địa điểm được ưa chuộng trước đây như Nhật Bản và Mỹ.

Nhiều chuyên gia nhận định, yếu tố lớn nhất làm giảm bớt lo lắng cho các nền kinh tế Đông Nam Á là tiềm năng thu hút chuỗi cung ứng đang dịch chuyển ra khỏi Trung Quốc. Điều này có thể bù đắp tác động tiêu cực do sự suy thoái của Trung Quốc bằng cách thúc đẩy xuất khẩu sang phần còn lại của thế giới và tạo ra tác động lan tỏa tích cực đáng kể cho nền kinh tế trong nước.

Nhưng vẫn còn có những thách thức. ASEAN không phải là đối thủ duy nhất trong việc dịch chuyển chuỗi cung ứng, vì khu vực này phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các nền kinh tế như Mexico và Ấn Độ.

Vị thế của Trung Quốc trong xuất khẩu hàng hóa trung gian toàn cầu khiến hầu hết các chuỗi giá trị trong khu vực và trên thế giới đều phụ thuộc vào nước này. Do đó, các nền kinh tế ASEAN cần thể hiện sự sẵn sàng hợp tác. Tăng cường hội nhập thương mại theo chiều dọc và giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp từ bên ngoài khu vực sẽ là khởi đầu tốt.

Đông Nam Á có nhiều lợi thế. Cùng với chi phí lao động thấp và trữ lượng lớn các nguyên liệu thô quan trọng như đồng, thiếc và niken, các nền kinh tế ASEAN được hưởng lợi từ việc nhân sự có trình độ học vấn tốt và khả năng sản xuất mạnh mẽ. Bằng cách tăng cường sự hiện diện của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu, các nền kinh tế ASEAN có thể bù đắp được nhiều hơn những tổn thất.

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

Làm gì khi nền kinh tế Trung Quốc giảm tốc?

Làm gì khi nền kinh tế Trung Quốc giảm tốc?

Khi Trung Quốc “vật lộn” để hồi phục kinh tế, tác động không chỉ giới hạn trong biên giới nước này. Với mối quan hệ kinh tế mật thiết với Trung Quốc, Việt Nam đã và đang chịu ảnh hưởng và cần biện pháp ứng phó kịp thời.

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,500 120,500
AVPL/SJC HCM 118,500 120,500
AVPL/SJC ĐN 118,500 120,500
Nguyên liệu 9999 - HN 11,230 11,460
Nguyên liệu 999 - HN 11,220 11,450
Cập nhật: 26/04/2025 00:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.500 117.500
TPHCM - SJC 118.500 120.500
Hà Nội - PNJ 114.500 117.500
Hà Nội - SJC 118.500 120.500
Đà Nẵng - PNJ 114.500 117.500
Đà Nẵng - SJC 118.500 120.500
Miền Tây - PNJ 114.500 117.500
Miền Tây - SJC 118.500 120.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 120.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 120.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.500 117.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.500 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 114.380 116.880
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.660 116.160
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 113.430 115.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.400 87.900
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 61.100 68.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.320 48.820
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.770 107.270
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 64.020 71.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.700 76.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 72.210 79.710
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.530 44.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.260 38.760
Cập nhật: 26/04/2025 00:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,270 11,790
Trang sức 99.9 11,260 11,780
NL 99.99 11,270
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,270
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,500 11,800
Miếng SJC Thái Bình 11,850 12,050
Miếng SJC Nghệ An 11,850 12,050
Miếng SJC Hà Nội 11,850 12,050
Cập nhật: 26/04/2025 00:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16071 16337 16918
CAD 18203 18479 19098
CHF 30705 31081 31734
CNY 0 3358 3600
EUR 28903 29172 30205
GBP 33812 34201 35141
HKD 0 3224 3426
JPY 174 178 184
KRW 0 0 19
NZD 0 15179 15774
SGD 19247 19526 20051
THB 691 754 808
USD (1,2) 25759 0 0
USD (5,10,20) 25798 0 0
USD (50,100) 25826 25860 26195
Cập nhật: 26/04/2025 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,869 25,869 26,195
USD(1-2-5) 24,834 - -
USD(10-20) 24,834 - -
GBP 34,155 34,248 35,106
HKD 3,298 3,308 3,403
CHF 30,856 30,951 31,778
JPY 177.61 177.93 185.62
THB 741.42 750.58 802.7
AUD 16,440 16,500 16,926
CAD 18,514 18,573 19,051
SGD 19,477 19,537 20,131
SEK - 2,659 2,749
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,890 4,019
NOK - 2,454 2,536
CNY - 3,537 3,628
RUB - - -
NZD 15,215 15,356 15,787
KRW 16.86 17.58 18.85
EUR 29,076 29,099 30,297
TWD 723.49 - 874.69
MYR 5,562.41 - 6,266.28
SAR - 6,827.91 7,177.26
KWD - 82,612 87,774
XAU - - -
Cập nhật: 26/04/2025 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,850 25,855 26,195
EUR 28,962 29,078 30,167
GBP 34,006 34,143 35,116
HKD 3,288 3,301 3,408
CHF 30,755 30,879 31,771
JPY 177.54 178.25 185.63
AUD 16,330 16,396 16,926
SGD 19,478 19,556 20,087
THB 759 762 795
CAD 18,440 18,514 19,030
NZD 15,322 15,832
KRW 17.35 19.11
Cập nhật: 26/04/2025 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,845 25,895 26,195
USD20 25,845 25,895 26,195
USD1 25,845 25,895 26,195
AUD 16,308 16,458 17,548
EUR 29,217 29,367 30,586
CAD 18,329 18,429 19,769
SGD 19,488 19,638 20,135
JPY 178.37 179.87 184.78
GBP 34,197 34,347 35,166
XAU 11,848,000 0 12,052,000
CNY 0 3,727 0
THB 0 797 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/04/2025 00:02