Khoa học và công nghệ là đầu tàu kéo kinh tế Việt Nam tăng trưởng

10:57 | 07/05/2019

293 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Nền kinh tế tăng trưởng dựa vào vốn, các nguồn tài nguyên sẵn có đang dần hết dư địa phát triển, bởi thế khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo đang được xem là chất xúc tác, là đầu tàu để kéo cả đoàn tàu đất nước tăng trưởng.

Mặc dù Việt Nam đến với khoa học và công nghệ muộn hơn so với nhiều quốc gia trên thế giới nhưng tốc độ phát triển về lĩnh vực này của đất nước ta lại được đánh giá cao. Những năm gần đây, khoa học và công nghệ đã thực sự có tác động mạnh mẽ đến hầu hết các mặt của đời sống kinh tế, xã hội.

Kinh tế Việt Nam năm 2018 đạt được nhiều thành tích nổi bật, với tăng trưởng kinh tế cao nhất trong 10 năm qua (7,08%), chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng được cải thiện, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP đạt 43,5%, bình quân 3 năm 2016 - 2018 đạt 43,3%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,6% của giai đoạn 2011 - 2015, năng suất lao động tăng 5,9%… Có được kết quả này, theo đánh giá của hầu hết các chuyên gia kinh tế là có sự đóng góp to lớn của khoa học và công nghệ.

khoa hoc va cong nghe la dau tau keo doan tau kinh te viet nam tang truong
Khoa học và công nghệ đã và đang tác động mạnh mẽ đến nhiều mặt của kinh tế - xã hội

Cụ thể, các doanh nghiệp ngày càng ý thức rõ hơn về vai trò của khoa học, công nghệ trong phát triển bền vững cũng như tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ. Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong nước như: Vingroup, TH, Thaco… đã chuyển hướng chiến lược đầu tư lớn cho nghiên cứu và phát triển công nghệ, khởi nghiệp sáng tạo, thành lập viện nghiên cứu, trường đại học của doanh nghiệp. Tỷ trọng đầu tư giữa Nhà nước và doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ không còn ở mức 7:3 như đầu thập kỉ mà đã thay đổi theo chiều hướng tích cực 5,2:4,8.

Phong trào khởi nghiệp sáng tạo phát triển mạnh mẽ trong cả nước, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ngày càng hoàn thiện. Chất lượng và số lượng các thương vụ đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có xu hướng tăng mạnh trong năm 2018 với tổng số vốn đầu tư là 889 triệu USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2017 (291 triệu USD), trong đó có những giao dịch trên 40 triệu USD đầu tư vào Yeah1, Sendo, Topica.

Trong nông nghiệp, khoa học và công nghệ đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2018 ước đạt 40,02 tỷ USD.

Trong công nghiệp, xây dựng và giao thông, các nhiệm vụ khoa học và công nghệ chú trọng vào hỗ trợ phát triển sản phẩm của doanh nghiệp theo chuỗi giá trị để tạo ra sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngành công nghiệp. Cùng với đó, các ngành công nghiệp, xây dựng và giao thông cũng đã làm chủ công nghệ thiết kế, thi công các nhà máy thủy điện lớn, phát triển nguồn điện, lưới điện, hệ thống điều khiển - điều độ - thông tin - viễn thông điện lực, công trình ngầm, nhà cao tầng, cầu dây văng, đường cao tốc đạt chuẩn quốc tế, chế tạo thành công thiết bị cơ khí thủy công và nâng hạ siêu trường, siêu trọng…

Thành tựu của việc phát triển khoa học công nghệ không thể không kể đến những thành công trong lĩnh vực y tế. Việc nghiên cứu, sản xuất vắc xin phục vụ chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia, thuốc điều trị ung thư, tim mạch tiểu đường, chống thải ghép, cấy ghép tạng, ghép đa tạng… được xem là những kết quả của quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ cấp quốc gia.

Hiện nay, Việt Nam đang có quan hệ hợp tác về khoa học và công nghệ với hơn 70 quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế và khu vực, là thành viên của hơn 100 tổ chức quốc tế và khu vực về khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, mạng lưới đại diện khoa học và công nghệ được xây dựng tại nhiều quốc gia có thế mạnh về phát triển kinh tế dự trên khoa học và công nghệ đã giúp nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu về khả năng phát triển kinh tế số ở Việt Nam…

Theo đánh giá chung, chỉ số đối mới sáng tạo của Việt Nam những năm gần đây liên tục tăng, đã đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp (năm 2017 tăng 12 bậc, năm 2018 xếp thứ 45/126 quốc gia, trong đó nhóm chỉ số về trí thức - công nghệ của Việt Nam có thứ hạng rất cao, xếp thứ 28). Đây được xem là những nỗ lực vượt bậc của một quốc gia đi sau về phát triển khoa học công nghệ nhưng có tốc độ phát triển mạnh mẽ.

Mặc dù thế giới đã đi qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp, trong đó 3 cuộc cách mạng công nghiệp trước đó, vì nhiều lý do khách quan chúng ta chưa tận dụng được để phát triển đất nước. Ngày nay, chúng ta đã chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập, chúng ta cần phải có ý thức ngày càng cao về khoa học công nghệ, đặc biệt là về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng lần này được xem là một cơ hội lớn, nếu bỏ lỡ thời cơ này, khả năng tụt hậu sẽ xa hơn rất nhiều.

“Nếu trước kia chúng ta đã có khát vọng bằng mọi giá phải giành độc lập tự do thì giờ đây cần xây dựng khát vọng bằng mọi giá phải thành một nước phát triển và không có khoa học và công nghệ, sẽ rất khó đạt được mục tiêu này” - ông Nguyễn Văn Thạo, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận Trung ương từng nhấn mạnh.

Minh Lê

khoa hoc va cong nghe la dau tau keo doan tau kinh te viet nam tang truongRa mắt Trung tâm Đổi mới sáng tạo về Internet vạn vật đầu tiên của Việt Nam
khoa hoc va cong nghe la dau tau keo doan tau kinh te viet nam tang truongNhà khoa học - doanh nghiệp “bắt tay” khai thác nguồn thảo dược thiên nhiên Việt Nam
khoa hoc va cong nghe la dau tau keo doan tau kinh te viet nam tang truongDoanh nghiệp khoa học và công nghệ được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC HCM 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC ĐN 81,800 ▼200K 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,250 ▼200K 74,200 ▼200K
Nguyên liệu 999 - HN 73,150 ▼200K 74,100 ▼200K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,800 ▼200K 84,000
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼500K 84.300 ▼200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,305 ▼15K 7,510 ▼15K
Trang sức 99.9 7,295 ▼15K 7,500 ▼15K
NL 99.99 7,300 ▼15K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,280 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
Miếng SJC Thái Bình 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Nghệ An 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Hà Nội 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▼500K 84,300 ▼200K
SJC 5c 82,000 ▼500K 84,320 ▼200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▼500K 84,330 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800 ▼100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900 ▼100K
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,000 ▼100K
Nữ Trang 99% 71,267 ▼99K 73,267 ▼99K
Nữ Trang 68% 47,975 ▼68K 50,475 ▼68K
Nữ Trang 41.7% 28,511 ▼42K 31,011 ▼42K
Cập nhật: 25/04/2024 16:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,132.31 16,295.26 16,818.06
CAD 18,084.86 18,267.53 18,853.61
CHF 27,078.76 27,352.28 28,229.82
CNY 3,428.68 3,463.32 3,574.97
DKK - 3,581.24 3,718.38
EUR 26,509.78 26,777.56 27,963.40
GBP 30,937.15 31,249.64 32,252.22
HKD 3,157.93 3,189.82 3,292.16
INR - 303.56 315.69
JPY 158.10 159.69 167.33
KRW 15.97 17.75 19.36
KWD - 82,247.73 85,536.02
MYR - 5,254.14 5,368.74
NOK - 2,269.41 2,365.76
RUB - 261.89 289.91
SAR - 6,745.43 7,015.11
SEK - 2,290.51 2,387.76
SGD 18,188.62 18,372.35 18,961.78
THB 605.39 672.66 698.42
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,311 16,411 16,861
CAD 18,302 18,402 18,952
CHF 27,342 27,447 28,247
CNY - 3,460 3,570
DKK - 3,598 3,728
EUR #26,742 26,777 28,037
GBP 31,373 31,423 32,383
HKD 3,165 3,180 3,315
JPY 159.6 159.6 167.55
KRW 16.65 17.45 20.25
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,278 2,358
NZD 14,877 14,927 15,444
SEK - 2,290 2,400
SGD 18,211 18,311 19,041
THB 632.52 676.86 700.52
USD #25,158 25,158 25,477
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,155.00 25,475.00
EUR 26,606.00 26,713.00 27,894.00
GBP 30,936.00 31,123.00 32,079.00
HKD 3,170.00 3,183.00 3,285.00
CHF 27,180.00 27,289.00 28,124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16,185.00 16,250.30 16,742.00
SGD 18,268.00 18,341.00 18,877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18,163.00 18,236.00 18,767.00
NZD 14,805.00 15,299.00
KRW 17.62 19.25
Cập nhật: 25/04/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25155 25155 25477
AUD 16349 16399 16909
CAD 18342 18392 18848
CHF 27509 27559 28112
CNY 0 3463.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26943 26993 27703
GBP 31492 31542 32200
HKD 0 3140 0
JPY 160.89 161.39 165.9
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14917 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18446 18496 19057
THB 0 644.5 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 16:45