Hiệu ứng Boomerang khi phương Tây "vũ khí hóa" dầu mỏ đối phó Nga

12:24 | 22/06/2022

2,208 lượt xem
|
Phương Tây hi vọng việc tác động vào năng lượng Nga sẽ khiến Moscow chùn bước trong chiến dịch quân sự ở Ukraine, nhưng thực tế lại đang diễn ra theo chiều hướng ngược lại.
Hiệu ứng Boomerang khi phương Tây vũ khí hóa dầu mỏ đối phó Nga - 1
Mỏ dầu Vankorskoye của Nga (Ảnh: Reuters).

Sau khi Tổng thống Nga Vladimir Putin ngày thông báo mở chiến dịch quân sự tại Ukraine, Mỹ và các đồng minh EU đã lần lượt áp lệnh trừng phạt lên ngành năng lượng hóa thạch của Nga. Phương Tây mong chờ kịch bản, ngành năng lượng xương sống của Nga sẽ suy yếu, dẫn tới việc họ không có đủ tài chính để duy trì cuộc chiến và lâu dài hơn sẽ tác động tới nền kinh tế nước này.

Theo New York Times, viễn cảnh đó dường như không trở thành hiện thực, ít nhất là vào thời điểm này vì hiệu ứng Boomerang mà các biện pháp này tạo ra. Boomerang là một thiết bị mà khi ném đi sẽ quay trở lại điểm xuất phát. Khái niệm hiệu ứng Boomerang ám chỉ việc một phía gây ra tác động tới phía còn lại và đồng thời cũng bị tác động ngược trở lại.

Trong trường hợp này, phương Tây tính toán rằng, các lệnh trừng phạt sẽ gây tổn hại lớn cho Nga nhưng do một số yếu tố, nó lại gây hiệu ứng ngược khiến kinh tế Mỹ và châu Âu cũng bị ảnh hưởng tiêu cực. Mặt khác, trong ngắn hạn, Nga lại tìm được cách xoay xở trước lệnh cấm vận, khiến hiệu quả của các biện pháp này bị giảm sút.

Trung Quốc và Ấn Độ, 2 nước đông dân nhất thế giới và có quan điểm trung lập trong chiến sự Nga - Ukraine, đã nhanh chóng mua bù đắp lượng dầu của Moscow bị phương Tây cấm vận. Giá dầu tăng mạnh tới mức Nga thậm chí còn kiếm được nhiều doanh thu hơn từ dầu mỏ so với 4 tháng trước chiến sự. Đồng rúp mất giá một thời gian ngắn sau khi "bão" trừng phạt ập tới nhưng sau đó tăng mạnh nhờ các biện pháp can thiệp của chính phủ Nga.

Sự ảnh hưởng của lệnh trừng phạt với kinh tế Nga là có thật nhưng phương Tây cũng đang đối mặt với cuộc khủng hoảng giá năng lượng tăng mạnh kéo theo lạm phát kỷ lục - những yếu tố gây áp lực lên chính quyền Mỹ và các nước EU.

Một số chuyên gia cho rằng, lệnh cấm vận dầu mỏ Nga của phương Tây chưa phát huy hết tác dụng và mục tiêu của hàng nghìn lệnh trừng phạt áp lên Moscow vào thời gian qua là nhằm tạo nên ảnh hưởng một cách lâu dài. Giới quan sát nhận định, phương Tây kỳ vọng rằng, sau cuộc chiến, Nga sẽ bị cản trở hoạt động ngân hàng và các ngành khác. Nhưng trước mắt, ngành nhiên liệu hóa thạch vẫn đang giúp Nga trụ vững và họ vẫn có ngân sách cho chiến dịch quân sự.

Ông Yevgeny Nadorshin, nhà kinh tế trưởng của công ty tư vấn PF Capital ở Moscow, cho biết: "Mọi thứ diễn ra tốt hơn nhiều so với tình huống xấu nhất. Nhưng thật không may, giai đoạn khó khăn nhất chỉ mới bắt đầu".

Mặc dù vậy, trong giai đoạn ngắn hạn, chiến lược của Mỹ và đồng minh nhằm tác động tới sự quyết tâm của Nga dường như đã gặp phải hiệu ứng boomerang.

Vào tháng 5, Trung Quốc tăng nhập dầu Nga thêm 28% so với tháng trước, đạt mốc cao kỷ lục. Nga trở thành nhà xuất khẩu dầu lớn nhất cho Trung Quốc. Ấn Độ, quốc gia từng mua số lượng dầu không nhiều từ Nga, nay mua tới 760.000 thùng mỗi ngày.

"Châu Á đã cứu nguy cho ngành dầu thô Nga. Nga thay vì bị suy thoái thì lại gần như quay về mốc trước khi dịch Covid-19 diễn ra", chuyên gia Viktor Katona từ tổ chức Kpler (Pháp) nhận xét.

Nga hưởng lợi từ năng lượng

Theo Rystad Energy, một công ty phân tích kinh doanh và nghiên cứu độc lập, doanh số bán dầu thô của Nga sang châu Âu giảm 554.000 thùng/ngày từ tháng 3 đến tháng 5 nhưng các đối tác ở châu Á đã tăng nhập từ Moscow thêm 503.000 thùng/ngày - mức bù đắp gần như tương đương. Nga đã thu về 1,7 tỷ USD từ mặt hàng này trong tháng trước so với tháng 4, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế.

Vẫn chưa rõ liệu châu Á có thu mua tất cả dầu của Nga bán cho châu Âu hay không, vì EU đang nỗ lực để thoát khỏi sự phụ thuộc vào xuất khẩu năng lượng của Kremlin. Nhưng hiện tại, sự thay đổi đã cho phép Moscow duy trì mức sản xuất dầu và làm xáo trộn kỳ vọng rằng sản lượng của nước này sẽ sụt giảm.

Theo các nhà phân tích, sự kết hợp giữa việc Nga chiết khấu mạnh giá dầu thô, trong khi giá xăng và nhiên liệu tăng vọt giúp cho các nhà máy lọc dầu ở châu Á thu lợi lớn. Theo Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí Sạch có trụ sở tại Phần Lan, một số sản phẩm từ dầu mà Ấn Độ xuất khẩu đã được xuất sang Mỹ, Anh, Pháp và Italy.

Một khi dầu thô được chuyển thành dầu diesel hoặc xăng, không ai có thể phân biệt được liệu chúng có nguồn gốc từ Nga hay không. Điều đó có nghĩa là phương Tây có thể vẫn đang gián tiếp trả tiền để mua năng lượng Nga với giá cao hơn.

Nhu cầu năng lượng toàn cầu vẫn liên tục gia tăng khiến cho các nỗ lực gây áp lực cho Nga của phương Tây trở nên kém hiệu quả hơn, ít nhất trong ngắn hạn.

Ông Aleksei Miller, người đứng đầu tập đoàn năng lượng khổng lồ của Nga Gazprom, tuần trước cho biết, ngay cả khi lượng khí đốt tự nhiên EU nhập khẩu của Nga đã giảm vài chục hàng chục phần trăm, giá của chúng đã tăng gấp vài lần.

Tuy nhiên, chuyên gia cảnh báo rằng, các biện pháp trừng phạt của phương Tây có khả năng sẽ gây thêm tổn hại cho nền kinh tế Nga vào cuối năm nay. Và trong khi sự phục hồi của đồng tiền của Nga, đồng rúp, một phần là do khả năng phục hồi kinh tế đáng ngạc nhiên của đất nước, nó cũng phản ánh sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ đối với dòng vốn và giảm mạnh nhập khẩu vào Nga.

Hiện cũng khó xác định Nga sẽ đổ bao nhiêu ngân sách vào chiến sự ở Ukraine trong thời gian tới, nhưng chưa có bằng chứng nào cho thấy ông Putin đang chịu áp lực từ trong nước để khép lại cuộc chiến trước khi đạt được các mục tiêu. Tuy nhiên, các chuyên gia phỏng đoán, Nga có thể sẽ gặp khó khăn trong việc đảm bảo ngân sách quân sự nếu chiến sự kéo dài thêm.

Theo Dân trí

Nga cảnh báo châu Âu Nga cảnh báo châu Âu "tự sát" về năng lượng
Trung Quốc chi 7,5 tỷ USD mua năng lượng Nga, nhập dầu thô ở mức kỷ lụcTrung Quốc chi 7,5 tỷ USD mua năng lượng Nga, nhập dầu thô ở mức kỷ lục
Tình tiết mới vụ 3 giàn khoan của Nga ngoài khơi Crimea bị tập kíchTình tiết mới vụ 3 giàn khoan của Nga ngoài khơi Crimea bị tập kích
Ukraine thừa nhận tấn công giàn khoan gần Crimea, Nga đáp trảUkraine thừa nhận tấn công giàn khoan gần Crimea, Nga đáp trả
Những thách thức của châu Âu trong nỗ lực thoát năng lượng NgaNhững thách thức của châu Âu trong nỗ lực thoát năng lượng Nga
Đức có nguy cơ rơi vào suy thoái khi Nga Đức có nguy cơ rơi vào suy thoái khi Nga "siết van" khí đốt

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 146,100 149,100
Hà Nội - PNJ 146,100 149,100
Đà Nẵng - PNJ 146,100 149,100
Miền Tây - PNJ 146,100 149,100
Tây Nguyên - PNJ 146,100 149,100
Đông Nam Bộ - PNJ 146,100 149,100
Cập nhật: 25/11/2025 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,840 15,040
Miếng SJC Nghệ An 14,840 15,040
Miếng SJC Thái Bình 14,840 15,040
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,700 15,000
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,700 15,000
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,700 15,000
NL 99.99 14,060
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,060
Trang sức 99.9 14,290 14,890
Trang sức 99.99 14,300 14,900
Cập nhật: 25/11/2025 08:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,484 15,042
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,484 15,043
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 146 1,485
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 146 1,486
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,445 1,475
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,154 14,604
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 103,286 110,786
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,296 10,046
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,634 90,134
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,651 86,151
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,164 61,664
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cập nhật: 25/11/2025 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16479 16747 17323
CAD 18162 18438 19051
CHF 32030 32412 33059
CNY 0 3470 3830
EUR 29788 30061 31089
GBP 33734 34123 35057
HKD 0 3258 3460
JPY 161 165 171
KRW 0 16 18
NZD 0 14463 15048
SGD 19669 19950 20470
THB 727 790 843
USD (1,2) 26113 0 0
USD (5,10,20) 26155 0 0
USD (50,100) 26183 26203 26401
Cập nhật: 25/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,181 26,181 26,401
USD(1-2-5) 25,134 - -
USD(10-20) 25,134 - -
EUR 29,945 29,969 31,106
JPY 165.17 165.47 172.4
GBP 34,125 34,217 35,012
AUD 16,773 16,834 17,268
CAD 18,398 18,457 18,980
CHF 32,301 32,401 33,063
SGD 19,785 19,847 20,461
CNY - 3,661 3,758
HKD 3,336 3,346 3,428
KRW 16.57 17.28 18.55
THB 775.66 785.24 835.28
NZD 14,496 14,631 14,977
SEK - 2,722 2,801
DKK - 4,005 4,121
NOK - 2,534 2,608
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,962.44 - 6,687.75
TWD 759.69 - 914.07
SAR - 6,929.24 7,253.41
KWD - 83,686 88,492
Cập nhật: 25/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,181 26,401
EUR 29,755 29,874 31,004
GBP 33,885 34,021 34,988
HKD 3,319 3,332 3,440
CHF 32,009 32,138 33,025
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,674 16,741 17,277
SGD 19,803 19,883 20,420
THB 790 793 828
CAD 18,358 18,432 18,965
NZD 14,525 15,032
KRW 17.18 18.76
Cập nhật: 25/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26109 26109 26401
AUD 16650 16750 17683
CAD 18344 18444 19455
CHF 32270 32300 33886
CNY 0 3676.8 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29962 29992 31717
GBP 34025 34075 35843
HKD 0 3390 0
JPY 164.76 165.26 175.8
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14565 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19824 19954 20676
THB 0 757 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 14840000 14840000 15040000
SBJ 13000000 13000000 15040000
Cập nhật: 25/11/2025 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,190 26,240 26,401
USD20 26,190 26,240 26,401
USD1 26,190 26,240 26,401
AUD 16,726 16,826 17,942
EUR 30,059 30,059 31,171
CAD 18,299 18,399 19,706
SGD 19,861 20,011 20,574
JPY 165.28 166.78 172
GBP 34,116 34,266 35,047
XAU 14,838,000 0 15,042,000
CNY 0 3,559 0
THB 0 791 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 25/11/2025 08:00