Goldman Sachs không còn kỳ vọng giá dầu đạt mức 100 USD vào năm 2023

17:54 | 30/03/2023

|
Tuần trước, giá dầu đã ghi nhận tuần tồi tệ nhất kể từ đầu năm, giảm mạnh do lo ngại mới về nền kinh tế toàn cầu sau sự sụp đổ của hai ngân hàng lớn của Mỹ và sự sụt giảm gần như sụp đổ của Credit Suisse.

Trong khi hầu hết các dự báo về giá trong ngắn hạn đều tăng do các nguyên tắc cơ bản ủng hộ xu hướng tăng giá của dầu, thì giờ đây mọi thứ đang bắt đầu thay đổi. Nguồn cung khan hiếm, được hầu như tất cả các nhà dự báo cho là lý do chính dẫn đến giá dầu tăng, đang nhường chỗ cho những lo ngại về suy thoái kinh tế sẽ làm giảm nhu cầu và đẩy giá xuống thấp hơn.

Goldman Sachs đã điều chỉnh dự báo giá dầu cho thời gian còn lại của năm nay. Trước đây họ kỳ vọng dầu Brent sẽ đạt 100 đô la trong nửa sau của năm, giờ đây ngân hàng đầu tư kỳ vọng dầu ​​tiêu chuẩn quốc tế chỉ tăng lên 94 USD/thùng trong 12 tháng tới. Đối với năm 2024, các nhà phân tích của Goldman dự đoán dầu thô Brent sẽ có giá 97 USD/thùng.

Goldman Sachs không còn kỳ vọng giá dầu đạt mức 100 USD vào năm 2023

“Giá dầu giảm bất chấp sự bùng nổ nhu cầu của Trung Quốc do căng thẳng ngân hàng, lo ngại suy thoái kinh tế và dòng chảy của các nhà đầu tư”, Goldman cho biết vào tuần trước, được Bloomberg trích dẫn. “Trong lịch sử, sau những sự kiện đáng lo ngại như vậy, việc hồi phục vị trí và giá chỉ diễn ra dần dần, đặc biệt là giá dài hạn”.

Trên thực tế, theo như các sự kiện đã diễn ra, sự kiện này đã để lại một vết sẹo nghiêm trọng. Dầu thô Brent đã giảm từ hơn 80 USD/thùng xuống dưới 75 USD/thùng và dầu thô WTI giảm xuống gần 65 USD/thùng. Và điều này đã xảy ra trong khi các nhà dự báo có thẩm quyền như IEA và OPEC gần đây cho biết họ mong đợi tăng trưởng nhu cầu sẽ mạnh mẽ hơn tăng trưởng về nguồn cung.

Theo một báo cáo gần đây của CNBC, 41% người Mỹ đang chuẩn bị cho một cuộc suy thoái với lý do chính đáng. Mặc cho những cuộc tranh luận dường như bất tận trên các phương tiện truyền thông về việc liệu nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã suy thoái chưa, sắp bước vào suy thoái hay sẽ xoay sở để tránh suy thoái, các dự báo có vẻ không lạc quan.

“Những điều bạn đang thấy là việc các điều kiện tài chính bị thắt chặt đáng kể. Và thị trường đang muốn nói rằng điiều này làm tăng nguy cơ suy thoái và đúng là như vậy”, Jim Caron, trưởng bộ phận chiến lược vĩ mô về thu nhập cố định toàn cầu tại Morgan Stanley Investment Management, nói với CNBC hồi đầu tháng này.

“Cổ phiếu đang giảm. Lợi suất trái phiếu đang giảm. Tôi nghĩ một câu hỏi khác là: có vẻ như chúng ta đang định giá ở ba lần cắt giảm lãi suất, điều đó có xảy ra không? Bạn không thể phủ nhận điều này”, Caron nói.

Nhà phân tích thị trường của Reuters, John Kemp, đã có cái nhìn xa hơn vào tháng 1 khi ông dự đoán rằng bằng cách này hay cách khác, sẽ có một cuộc suy thoái toàn cầu và các cuộc tranh luận về cơ bản là vô nghĩa.

Trích dẫn chu kỳ tự nhiên của tăng trưởng kinh tế, Kemp đã thấy trước hai kịch bản có thể xảy ra: một là suy thoái bắt đầu sớm hơn trong năm do hậu quả tự nhiên của các sự kiện trong vài năm qua, và một kịch bản khác, sự tăng trưởng được thúc đẩy bởi ngân hàng trung ương dẫn đến mức lạm phát cao hơn, sau đó dẫn đến suy thoái trong bối cảnh tiêu dùng thấp hơn.

Cho dù kịch bản nào xảy ra, nếu có, đều dẫn đến việc nhu cầu dầu thấp hơn như việc suy thoái thường gây ra. Và nhu cầu thấp hơn sẽ khiến giá dầu giảm một cách tự nhiên, mặc dù chỉ là tạm thời. Bởi vì giá thấp hơn có xu hướng kích thích nhu cầu, ngay cả trong thời kỳ suy thoái.

Nhưng có một chi tiết quan trọng ở đây. Các dự báo về suy thoái kinh tế tập trung vào Vương quốc Anh, EU, Mỹ và Canada, cũng như Úc. Không ai đề cập về suy thoái kinh tế ở Trung Quốc hoặc Ấn Độ. Bởi vì Trung Quốc và Ấn Độ sẽ tăng trưởng trong năm nay và khi các quốc gia này tăng trưởng, họ sẽ tiêu thụ nhiều dầu hơn. Trong khi đó, có vẻ như nguồn cung dầu thô sẽ không nhiều.

Dù vậy, chỉ vì nhu cầu dầu từ Trung Quốc và Ấn Độ, mà đáng chú ý nhất là Trung Quốc, được nhìn thấy cao hơn trong năm nay, không có nghĩa là giá dầu cao hơn chắc chắn sẽ xảy ra. Đó là bởi vì nền kinh tế của Trung Quốc chú trọng xuất khẩu và khi các nước tiêu dùng rơi vào suy thoái hoặc bất cứ điều gì tương tự như vậy, những mặt hàng xuất khẩu này sẽ bị ảnh hưởng.

Các dự báo về nhu cầu dầu của Trung Quốc vẫn ở mức cao kỷ lục trong năm nay. OPEC cho biết họ dự đoán nhu cầu từ nhà nhập khẩu lớn nhất thế giới này sẽ tăng thêm hơn 700.000 thùng/ngày trong năm nay với tổng số 15,56 triệu thùng/ngày. Về phần mình, IEA dự báo tăng trưởng nhu cầu từ Trung Quốc sẽ đẩy thị trường dầu mỏ vào tình trạng thâm hụt trong nửa cuối năm. Tuy nhiên, nếu quốc gia này cũng bị suy thoái hoặc các quốc gia nhập khẩu giảm nhu cầu đối với mọi thứ đến từ Trung Quốc, thì mọi dự đoán đều bị hủy bỏ.

Do các nguyên tắc cơ bản của dầu, tất cả các dự báo đều để mức giá cao hơn vào cuối năm. Nhưng cơ sở cho những dự báo này xuất hiện trước khi ngân hàng bị sụp đổ và có gói cứu trợ tài chính của Credit Suisse.

Có lẽ cuộc hoảng loạn ngân hàng sẽ sớm qua đi và mọi thứ, bao gồm cả triển vọng về nhu cầu dầu, sẽ trở lại bình thường. Hoặc có lẽ cuộc hoảng loạn ngân hàng là điềm báo trước về những điều tồi tệ hơn sắp xảy ra - những thứ sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu với nhiều thứ, từ dầu thô đến iPhone. Được gọi chung là suy thoái kinh tế, những điều này có thể dẫn đến một số dự báo giá dầu rất khác vào cuối năm nay.

Goldman Sachs: Siêu chu kỳ hàng hóa đang đến gần

Goldman Sachs: Siêu chu kỳ hàng hóa đang đến gần

Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs nhìn thấy một siêu chu kỳ hàng hóa sắp xảy ra do Trung Quốc kích hoạt và sự dịch chuyển vốn khỏi thị trường năng lượng.

Ngọc Anh

Oilprice

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • novaland-16-8
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 66,350 66,950
AVPL/SJC HCM 66,400 67,000
AVPL/SJC ĐN 66,350 66,950 ▲50K
Nguyên liệu 9999 - HN 55,250 55,750
Nguyên liệu 999 - HN 55,200 55,600
AVPL/SJC Cần Thơ 66,350 66,950
Cập nhật: 28/05/2023 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 55.600 56.650
TPHCM - SJC 66.460 67.000
Hà Nội - PNJ 55.600 56.650
Hà Nội - SJC 66.460 67.000
Đà Nẵng - PNJ 55.600 56.650
Đà Nẵng - SJC 66.460 67.000
Miền Tây - PNJ 55.600 56.650
Miền Tây - SJC 66.550 67.050
Giá vàng nữ trang - Nhẫn PNJ (24K) 55.600 56.600
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 55.500 56.300
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 40.980 42.380
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 31.690 33.090
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 22.170 23.570
Cập nhật: 28/05/2023 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Đồng vàng 99.99 5,555 5,655
Vàng TT, 3A, NT Nghệ An 5,555 5,655
Vàng trang sức 99.99 5,490 5,615
Vàng trang sức 99.9 5,480 5,605
Vàng NL 99.99 5,495
Vàng miếng SJC Thái Bình 6,640 6,700
Vàng miếng SJC Nghệ An 6,640 6,700
Vàng miếng SJC Hà Nội 6,640 6,700
Vàng NT, TT, 3A Hà Nội 5,555 5,655
Vàng NT, TT Thái Bình 5,555 5,655
Cập nhật: 28/05/2023 16:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L 66,350 67,050
SJC 5c 66,350 67,070
SJC 2c, 1C, 5 phân 66,350 67,080
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 55,600 56,550
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.5 chỉ 55,600 56,650
Nữ Trang 99.99% 55,450 56,150
Nữ Trang 99% 54,394 55,594
Nữ Trang 68% 36,336 38,336
Nữ Trang 41.7% 21,567 23,567
Cập nhật: 28/05/2023 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 14,899.29 15,049.79 15,534.59
CAD 16,784.16 16,953.70 17,499.83
CHF 25,303.33 25,558.92 26,382.25
CNY 3,253.74 3,286.61 3,392.99
DKK - 3,322.24 3,449.90
EUR 24,541.48 24,789.38 25,915.65
GBP 28,219.39 28,504.43 29,422.65
HKD 2,922.87 2,952.39 3,047.50
INR - 283.09 294.45
JPY 163.38 165.03 172.96
KRW 15.32 17.02 18.66
KWD - 76,148.09 79,202.52
MYR - 5,023.26 5,133.48
NOK - 2,084.24 2,173.01
RUB - 278.55 308.40
SAR - 6,246.34 6,496.89
SEK - 2,128.47 2,219.12
SGD 16,923.13 17,094.07 17,644.73
THB 597.45 663.84 689.34
USD 23,290.00 23,320.00 23,660.00
Cập nhật: 28/05/2023 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 14,984 15,004 15,604
CAD 16,937 16,947 17,647
CHF 25,413 25,433 26,383
CNY - 3,254 3,394
DKK - 3,292 3,462
EUR #24,324 24,334 25,624
GBP 28,427 28,437 29,607
HKD 2,868 2,878 3,073
JPY 162.77 162.92 172.47
KRW 15.55 15.75 19.55
LAK - 0.63 1.58
NOK - 2,036 2,156
NZD 13,947 13,957 14,537
SEK - 2,097 2,232
SGD 16,805 16,815 17,615
THB 623.04 663.04 691.04
USD #23,232 23,272 23,692
Cập nhật: 28/05/2023 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 23,330 23,330 23,630
USD(1-2-5) 23,111 - -
USD(10-20) 23,283 - -
GBP 28,373 28,544 29,622
HKD 2,934 2,954 3,041
CHF 25,404 25,558 26,363
JPY 164.18 165.17 172.95
THB 641.3 647.78 707.51
AUD 14,985 15,076 15,535
CAD 16,868 16,969 17,493
SGD 17,020 17,122 17,611
SEK - 2,141 2,213
LAK - 1.02 1.4
DKK - 3,327 3,439
NOK - 2,094 2,164
CNY - 3,276 3,385
RUB - 265 340
NZD 14,013 14,097 14,439
KRW 15.86 17.53 18.99
EUR 24,735 24,802 25,917
TWD 691.15 - 835.85
MYR 4,757.93 - 5,362.21
Cập nhật: 28/05/2023 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 23,280.00 23,300.00 23,630.00
EUR 24,783.00 24,803.00 25,835.00
GBP 28,438.00 28,610.00 29,262.00
HKD 2,942.00 2,954.00 3,037.00
CHF 25,505.00 25,607.00 26,276.00
JPY 165.34 165.50 172.10
AUD 14,974.00 15,034.00 15,500.00
SGD 17,075.00 17,144.00 17,534.00
THB 658.00 661.00 693.00
CAD 16,937.00 17,005.00 17,391.00
NZD 0.00 14,012.00 14,488.00
KRW 0.00 16.94 19.52
Cập nhật: 28/05/2023 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 23.334 23.627
GBP 28.838 29.194
CHF 25.825 26.190
JPY 166,54 171,08
EUR 25.049 25.492
CAD 17.074 17.427
AUD 15.155 15.512
Cập nhật: 28/05/2023 16:00