Giá dầu thô ghi nhận tuần lao dốc mạnh

08:07 | 08/01/2023

6,028 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Lo ngại nhu cầu tiêu thụ dầu yếu trong bối cảnh triển vọng kinh tế ảm đạm khiến giá dầu thô có tuần lao dốc mạnh, tuột mốc 80 USD/thùng.
giá dầu giảm
Ảnh minh họa

Sau kỳ nghỉ lễ, giá dầu thô bước vào phiên giao dịch ngày 3/1 với xu hướng tăng nhẹ trong bối cảnh lo ngại nguồn cung thắt chặt lấn át những lo ngại suy thoái và dịch Covid-19 ở Trung Quốc đe dọa triển vọng tiêu thụ dầu.

Theo kế hoạch, Nga sẽ bắt đầu thực hiện kế hoạch cắt giảm sản lượng từ 5-7% vào đầu năm 2023.

Tại Mỹ, thời tiết khắc nghiệt đang tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất năng lượng tại khu vực, trong khi nước này cũng có kế hoạch mua dự trữ thêm 3 triệu thùng dầu vào kho dự trữ chiến lược vào đầu tháng 2/2023.

Trong khi nguồn cung dầu đang bị thắt chặt, triển vọng nhu cầu tiêu thụ dầu lại đang khá tích cực trước quyết định mở cửa trở lại nền kinh tế của Trung Quốc, quốc gia nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới.

Ở diễn biến khác, OPEC+ được dự đoán sẽ vẫn giữ nguyên mức chính sách giảm sản lượng 2 triệu thùng/ngày như đã áp dụng trong những tháng vừa qua.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 3/1/2023, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 2/2023 đứng ở mức 80,28 USD/thùng, tăng 0,02 USD trong phiên. Trong khi giá dầu Brent giao tháng 3/2023 đứng ở mức 85,93 USD/thùng, tăng 0,02 USD trong phiên.

Tuy nhiên, khi những dự báo không lạc quan về triển vọng kinh tế toàn cầu và đồng USD mạnh hơn, giá dầu thô đã quay đầu giảm mạnh.

Cụ thể, Tổng giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), bà Kristalina Georgieva, cho rằng, những động lực chính của tăng trưởng kinh tế toàn cầu như Mỹ, Trung Quốc và châu Âu đều đang giảm tốc và năm 2023 sẽ còn khó khăn hơn năm 2022.

Trước đó, hầu hết các tổ chức quốc tế đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong bối cảnh lạm phát vẫn ở mức cao và thị trường tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro, bất ổn. Trong đó, IMF đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 xuống còn 2,7%, giảm 0,2% so với dự báo được đưa ra trước đó; Fitch Ratings (FR) điều chỉnh mức dự báo từ 1,7% xuống còn 1,4%; Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) hạ dự báo xuống còn 2,2% trong năm 2023, giảm mạnh từ mức 3,1% của năm 2022.

Ở diễn biến mới nhất, nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục ghi nhận dữ liệu không mấy lạc quan. Theo đó, Chỉ số nhà quản lý mua hàng lĩnh vực chế tạo của Trung Quốc, theo khảo sát của Caixin/Markit, đã giảm từ mức 49,4 trong tháng 11/2022 xuống 49 trong tháng 12/2022.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 4/1/2023, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 2/2023 đứng ở mức 77,11 USD/thùng, tăng 0,18 USD trong phiên. Tuy nhiên, nếu so với cùng thời điểm ngày 3/1, giá dầu WTI giao tháng 2/2023 đã giảm tới 3,17 USD/thùng.

Trong khi giá dầu Brent giao tháng 3/2023 đứng ở mức 82,09 USD/thùng, giảm 0,01 USD trong phiên nhưng đã giảm tới 3,84 USD so với cùng thời điểm ngày 3/1.

Đà giảm của giá dầu tiếp tục gia tăng trong phiên giao dịch ngày 5/1 khi các dấu hiệu giảm tốc của nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là các nền kinh tế lớn có vai trò dẫn dắt như Mỹ, Trung Quốc, EU… ngày một rõ rang.

Số ca nhiễm Covid-19 mới ở Trung Quốc gia tăng cũng làm dấy lên nhiều lo ngại về việc tiêu thụ dầu thô ở nước này.

Theo Yeap Jun Rong, chuyên gia phân tích thị trường tại IG, giá dầu thô đang chịu áp lực lớn về các cảnh báo suy thoái kinh tế toàn cầu, tiến trình phục hồi mờ nhạt của Trung Quốc, số ca nhiễm Covid-19 mới và tâm lý thận trọng của nhà đầu tư.

Một dấu hiệu cho thấy nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc yếu hơn là việc chính phủ nước này mới đây đã tăng hạn ngạch xuất khẩu các sản phẩm dầu tinh chế.

Giá dầu có xu hướng giảm mạnh còn do Saudi Arabia được cho là đang cân nhắc tiếp tục giảm giá bán đối với các loại dầu thô Arab Light bán cho thị trường châu Á từ mức thấp nhất 10 tháng trong tháng này do lo ngại dư cung.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 5/1/2023, theo giờ Việt Nam, trên sàn New York Mercantile Exchanghe, giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 2/2023 đứng ở mức 73,18 USD/thùng, tăng 0,34 USD trong phiên. Tuy nhiên, nếu so với cùng thời điểm ngày 4/1, giá dầu WTI giao tháng 2/2023 đã giảm tới 3,93 USD/thùng.

Trong khi giá dầu Brent giao tháng 3/2023 đứng ở mức 78,07 USD/thùng, tăng 0,23 USD trong phiên nhưng đã giảm tới 4,02 USD so với cùng thời điểm ngày 4/1.

Giá dầu chỉ lấy lại được đà tăng nhẹ trong phiên giao dịch cuối tuần khi thông tin dự trữ dầu thô Mỹ tăng thấp hơn dự báo, trong khi xăng và các sản phẩm chưng cất giảm mạnh.

Theo dữ liệu được Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) công bố ngày 5/1, dự trữ dầu thô thương mại của nước này đã tăng 1,7 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 30/12/2022, thấp hơn nhiều so với con số 4,5 triệu thùng được đưa ra trong một cuộc khảo sát của S&P Global Commondity Insights.

Đáng chú ý, dự trữ xăng của Mỹ đã giảm 0,3 triệu thùng so với tuần trước, còn dự trữ nhiên liệu chưng cất thì giảm tới 1,4 triệu thùng.

Những số liệu trên đã góp phần cải thiện đáng kể kỳ vọng của nhà đầu tư vào triển vọng tiêu thụ dầu thô trong thời gian tới.

Việc Trung Quốc, quốc gia nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới, mở của trở lại nền kinh tế đã mở ra nhiều kỳ vọng về nhu cầu tiêu thụ dầu toàn cầu, tạo động lực tăng giá cho dầu thô. Tuy nhiên, sự kỳ vọng này lại đang bị bào mòn khi nhiều nước đang yêu cầu các biện pháp xét nghiệm Covid-19 đối với du khách Trung Quốc.

Với các dữ liệu kinh tế, đặc biệt là lạm phát, giới chuyên gia nhận định các ngân hàng trung ương, đặc biệt là Fed và ECB có thể sẽ tiếp tục thực hiện các đợt tăng lãi suất mới, điều này sẽ tạo áp lực không nhỏ đối với các hoạt động kinh tế, qua đó tác động tiêu cực đến triển vọng tiêu thụ dầu toàn cầu.

Khép tuần gia dịch, giá dầu hôm nay ghi nhận giá dầu thô ngọt nhẹ WTI giao tháng 2/2023 trên sàn New York Mercantile Exchanghe đứng ở mức 73,73 USD/thùng; trong khi giá dầu Brent giao tháng 3/2023 đứng ở mức 78,55 USD/thùng.

Tại thị trường trong nước, giá dầu ngày 8/1 ghi nhận giá xăng dầu trong nước niêm yết phổ biến trên thị trường như sau: Giá xăng E5 RON 92 không cao hơn 21.350 đồng/lít; giá xăng RON 95 không cao hơn 22.150 đồng/lít; giá dầu hỏa không cao hơn 22.760 đồng/lít; giá dầu mazut không cao hơn 13.740 đồng/kg; giá dầu diesel giữ nguyên ở 22.150 đồng/lít.

Hà Lê

Điều gì thực sự đã xảy ra với nền kinh tế Nga trong năm 2022?Điều gì thực sự đã xảy ra với nền kinh tế Nga trong năm 2022?
Ả Rập Xê-út có thể tiếp tục giảm giá dầu xuất khẩu sang châu ÁẢ Rập Xê-út có thể tiếp tục giảm giá dầu xuất khẩu sang châu Á
Kinh tế suy thoái sẽ ảnh hưởng đến giá dầu trong năm 2023?Kinh tế suy thoái sẽ ảnh hưởng đến giá dầu trong năm 2023?
Giá dầu trong năm 2022 đã tăng bao nhiêu?Giá dầu trong năm 2022 đã tăng bao nhiêu?

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,820 ▲50K 11,340
Trang sức 99.9 10,810 ▲50K 11,330
NL 99.99 10,820 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 ▲50K 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 19:00