Gần 2 năm bỏ thuế xe nhập, thị trường ô tô Việt có gì đổi khác?

06:46 | 24/08/2019

661 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việt Nam chính thức bỏ thuế nhập khẩu xe hơi từ các nước trong ASEAN từ ngày 01/01/2018, tính đến nay đã một năm 8 tháng, thị trường xe Việt cũng đã có những thay đổi theo hướng giá giảm dần và nhập khẩu ngày càng nhiều xe Thái Lan, Indonesia.

Tiêu thụ xế hộp chỉ hơn 1,5 lần lúc chưa bỏ thuế

Theo số liệu của Hiệp hội các doanh nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), trong 7 tháng đầu năm tiêu thụ xe du lịch đạt hơn 128.200 chiếc, tăng hơn 31.700 chiếc so với năm trước và tăng gần 43.000 chiếc so với thời điểm chưa bỏ thuế xe nhập từ ASEAN. Rõ ràng tiêu thụ thị trường xe vẫn còn chuyển biến chậm, chủ yếu là do giá xe chưa giảm như kỳ vọng.

Gần 2 năm bỏ thuế xe nhập, thị trường ô tô Việt có gì đổi khác?
Lượng xe cá nhân tiêu thụ gấp 1,5 lần năm trước

Về tổng số xe, tính đến thời điểm 7 tháng của năm 2019, ước tính cả nước tiêu thụ được hơn 171.600 chiếc xe các loại, tăng hơn 28.000 chiếc so với năm trước và chỉ tăng hơn 17.600 chiếc so với thời điểm chưa bỏ thuế. Thậm chí so với 7 tháng năm 2016, lượng xe tiêu thụ toàn thị trường còn xấp xỉ so với hiện nay.

Trung bình, doanh số bán xe theo tháng của 7 tháng đầu năm 2019 là hơn 22.500 chiếc/tháng, tăng hơn 4.000 so với bình quân của 7 tháng năm 2018, chỉ tăng hơn 2.500 chiếc so với bình quân thời gian năm 2017 và 1.000 chiếc/tháng so với 7 tháng năm 2016.

Như vậy, về mặt con số, ta thấy lượng tiêu thụ xe hơi không có tăng đột biến sau khi bỏ thuế nhập khẩu xe hơi, chủ yếu lượng xe tiêu thụ nhiều đổ dồn vào xe du lịch.

Cụ thể, 7 tháng năm 2019 so với cùng kỳ 2016, lượng xe du lịch tăng nhiều nhất đạt trên 46.000 chiếc, tương ứng tăng tiêu thụ mỗi tháng hơn 6.600 chiếc.

Giảm giá xe chưa như kỳ vọng

Mặc dù thuế nhập khẩu xe các loại từ ASEAN tương ứng ở mức 30% năm 2017 xuống còn 0% từ ngày 1/1/2018, tuy nhiên, tính đến nay giá các dòng xe tại Việt Nam không giảm rõ rệt. Thị trường chỉ chứng kiến đà giảm giá của một số dòng xe bán ế hoặc muốn tăng doanh số trên thị trường, xu hướng giảm giá xe hàng trăm triệu đồng như từ năm 2017 không diễn ra.

Gần 2 năm bỏ thuế xe nhập, thị trường ô tô Việt có gì đổi khác?
Sau 2 năm bỏ thuế, thị trường không chứng kiến biến động giảm giá mạnh ồ ạt các dòng xe, mẫu xe.

Điều được nhất mà thị trường xe hơi Việt ghi nhận được sau khi Việt Nam bỏ thuế nhập xe từ Thái Lan, Indonesia chính là sự đa dạng nguồn cung, dòng và mẫu xe. Các dòng xe giá rẻ hatchback không chỉ độc tôn bởi mỗi Hyundai i10, Kia Morning mà có sự tham gia của Toyota, Honda, Mitsubishi với Wigo, Brio và Mirage.

Phân khúc xe SUV và MPV đô thị có sự đa dạng nhất sau khi Việt Nam bỏ thuế, thị trường xe nhập có thêm nhiều mẫu xe mới hoặc giá các loại xe khác rẻ đi nhanh chóng như Mazda CX5, Mitsubishi Outlander, Hyundai SantaFe, Kona rồi bổ sung thêm nhiều mẫu xe mới đã và đang ra mắt thị trường Việt như Toyota Rush, Honda HRV, Chevrolet Trailblazer, Mitsubishi Xpander, Mazda CX8, Hyundai Palisade...

Một điểm đáng nói là tiêu thụ xe hơi tại Việt Nam đang có tỷ lệ cao và gia tăng mua xe mạnh mẽ ở phân khúc xe cao cấp. Xe Sedan, SUV và MPV đều có doanh số vượt gấp 3 - 5 lần so với xe giá rẻ hatchback. Điều này chứng tỏ xe hơi mới chỉ đáp ứng một bộ phận người có tiền, nhà giàu, còn tầng lớp người có thu nhập bình dân vẫn chưa tiếp cận được xe hơi.

Liên minh Thái, Indonesia "bao sân", xe chuẩn Mỹ, EU "đuối sức"

Trong dòng chảy xe nhập, nếu trước kia sở hữu chiếc xe nhập khá đắt đỏ thì nay người Việt dễ dàng hơn. Các xe Thái Lan, Indonesia đều là thương hiệu của Nhật, Mỹ, Hàn đổ bộ vào Việt Nam, đi liền với đó là giá cả rẻ hơn và tiêu chuẩn cũng được giảm đi phù hợp với xuất xứ quốc gia.

Gần 2 năm bỏ thuế xe nhập, thị trường ô tô Việt có gì đổi khác?
Xe Thái, Indonesia lập "liên minh", "bao sân" thị trường Việt Nam

Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan, hết 6 tháng năm 2019, lượng xe nhập Mỹ về chỉ đạt 690 chiếc, bằng 50% so với cùng kỳ năm 2017. Xe Đức chỉ nhập về hơn 770 chiếc, chỉ tăng gần 100 chiếc so với năm 2017 và giảm khoảng 50% so với cùng kỳ năm 2016. Xe nhập từ Nhật 6 tháng qua đạt hơn 1.600 chiếc, giảm hơn 400 chiếc so với cùng kỳ 2017, và hơn 2.600 chiếc so với cùng kỳ năm 2016. Xe nhập từ Hàn Quốc cũng chỉ đạt gần 600 chiếc, giảm hơn 4.300 chiếc so với cùng kỳ năm 2017 và giảm hơn 8.800 chiếc so với cùng kỳ năm 2016.

Sở dĩ các thông số nhập xe năm 2019 đều được so sánh với cùng kỳ các năm 2017, 2016 bởi cùng kỳ năm 2018 do Nghị định 116 của Chính phủ, Thông tư 03 của Bộ GTVT nên lượng xe nhập giảm mạnh, nếu so sánh sẽ không đúng với thực tế thị trường.

Trong khi đó, lượng xe nhập từ Thái, Indonesia tăng cực mạnh, 6 tháng đầu năm 2019, lượng xe nhập Thái, Indonesia đạt 66.000 chiếc, chiếm gần 90% về lượng trong 7 đối tác nhập xe lớn vào Việt Nam.

Cũng theo số liệu của hải quan, lượng xe nguyên chiếc nhập từ Mỹ về Việt Nam hiện ngày càng ít đi, các dòng xe của Ford, GM hay các dòng xe cao cấp của EU như thương hiệu xe Anh, Ý cũng bị quản chặt hơn và lượng nhập về Việt Nam cũng ít hơn so với trước.

Sau sự cố Euro Auto, xe phần lớn dòng xe nhập nguyên chiếc từ BMW được chuyển về Thaco, phải qua 6 tháng đình hoãn, lượng xe nhập chuẩn Đức mới về Việt Nam ổn định. Tuy nhiên, bản thân các dòng BMW, Audi, Mercedes vốn kén khách, nay bị cạnh tranh bởi xe phân khúc B và C khiến doanh số hầu hết các dòng xe Đức ở Việt Nam không cao.

Lý do cho cuộc đấu mà các dòng xe tiêu chuẩn cao từ Mỹ, EU hay Nhật vào Việt Nam không cân sức chính là thuế nhập khẩu. Hiện, xe nhập từ Thái được hưởng thuế 0%, trong khi các dòng xe từ Mỹ, EU, Nhật đều phải chịu thuế trên 70%. Nếu Việt Nam và EU phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (EVFTA), lộ trình 7 - 10 năm nữa, các dòng xe chuẩn EU mới được bỏ thuế ở Việt Nam, cuộc chiến về giá xe khi đó mới sòng phẳng giữa các hãng xe nhập.

Trong khi đó, với xe Mỹ, Việt Nam hiện chỉ có Ford duy trì lắp ráp tại Việt Nam, còn mảng nhập khẩu đều qua Thái Lan. Các loại xe nhập của Mỹ đều thuộc dòng dung tích lớn, xe Mỹ khá ít ở Việt Nam.

Theo tiết lộ của một số chuyên gia kinh tế, sắp tới Mỹ và Việt Nam rất có thể ký kết riêng với nhau một FTA và kỳ vọng khi đó xe Mỹ sẽ có lộ trình và rộng cửa vào Việt Nam hơn.

Theo Dân trí

Bộ Công Thương: Giá bán ô tô trong nước vẫn cao, chất lượng chưa bằng nhập khẩu
Né "tháng cô hồn", xe giá rẻ nhập khẩu ồ ạt về Việt Nam
Dân chuộng ô tô giá rẻ, xe nhập châu Âu, Nhật, Mỹ "lao dốc" ở Việt Nam
Hàng chục nghìn xế hộp giá rẻ Thái, Indonesia "tấn công" Việt Nam mỗi năm
Xe Indonesia về Việt Nam giảm đột ngột hơn 5.000 chiếc vì mất "con cưng"

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 117,000 120,000
AVPL/SJC HCM 117,000 120,000
AVPL/SJC ĐN 117,000 120,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,480 11,760
Nguyên liệu 999 - HN 11,470 11,750
Cập nhật: 19/04/2025 00:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 117.000
TPHCM - SJC 117.000 120.000
Hà Nội - PNJ 114.000 117.000
Hà Nội - SJC 117.000 120.000
Đà Nẵng - PNJ 114.000 117.000
Đà Nẵng - SJC 117.000 120.000
Miền Tây - PNJ 114.000 117.000
Miền Tây - SJC 117.000 120.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 117.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.000 120.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 117.000 120.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 117.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 113.500 116.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.380 115.880
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 112.670 115.170
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.440 114.940
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.650 87.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.510 68.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.910 48.410
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.860 106.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.410 70.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.050 75.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.530 79.030
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.150 43.650
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.930 38.430
Cập nhật: 19/04/2025 00:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,320 11,840
Trang sức 99.9 11,310 11,830
NL 99.99 11,320
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,320
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,550 11,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,550 11,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,550 11,850
Miếng SJC Thái Bình 11,700 12,000
Miếng SJC Nghệ An 11,700 12,000
Miếng SJC Hà Nội 11,700 12,000
Cập nhật: 19/04/2025 00:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16005 16271 16864
CAD 18191 18467 19092
CHF 31039 31417 32077
CNY 0 3358 3600
EUR 28873 29141 30188
GBP 33625 34013 34979
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 185
KRW 0 0 18
NZD 0 15077 15681
SGD 19230 19510 20048
THB 691 754 808
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 19/04/2025 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 19/04/2025 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 19/04/2025 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 19/04/2025 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 19/04/2025 00:02