Cột mốc sống đầu tiên trên sóng Biển Đông

13:42 | 06/07/2021

4,574 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - 55 năm ra đời, chiến đấu, xây dựng và phát triển của Lữ đoàn tàu săn ngầm tuần tiễu 171 Vùng 2 Hải quân, có 4 mốc son chói lọi: Đánh đuổi tàu thuỷ, máy bay Mỹ ở miền Bắc, giúp nước bạn Campuchia đánh đuổi Pol pot Ieng Sary, tham gia xây đảo Trường Sa và dựng những cột mốc chủ quyền trên sóng Biển Đông.

Trong 4 mốc son ấy, chuyện xây dựng các nhà giàn DK1 mãi là niềm tự hào của nhiều thế hệ, khẳng định vùng biển, đảo DK1 thuộc chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.

Thuyền gỗ, sào tre đi dựng nhà giàn

Năm 2009, Vùng 2 Hải quân thành lập, Tiểu đoàn DK1 tách ra khỏi Lữ đoàn 171 thành một đơn vị riêng trực thuộc Vùng 2. Từ trước năm 2009, Tiểu đoàn DK1 được gọi là Khung quản lý DK1 thuộc Lữ đoàn tàu săn ngầm 171 Hải quân. Việc xây dựng các nhà giàn DK1 được bắt đầu từ năm 1989. Lực lượng chính xây dựng, chốt giữ trên các “pháo đài” ấy là cán bộ chiến sĩ của Lữ đoàn 171.

Cho đến bây giờ sau 32 năm kể từ ngày nhà giàn Phúc Tần 3 (DK1/3) được dựng giữa biển khơi, Trung tá Nguyễn Tiến Cường - nguyên thuyền trưởng tàu HQ 668 vẫn nhớ như in ngày ông và đồng đội vượt biển ra khơi dựng giàn. “Ngày đó phương tiện dựng nhà giàn thô sơ chứ đâu hiện đại như bây giờ. Tôi là người trực tiếp đi tàu ra đo độ sâu, đánh dấu toạ độ để công binh ra đóng các chân đế nhà giàn. Có thể nói đó là những ngày gian khổ nhất”- ông Cường bắt đầu câu chuyện.

Khối bê-tông khổng lồ được dìm xuống biển, giữ chân đế nhà giàn thêm vững chắc trước mùa bão tố, ảnh Mai Thắng
Khối bê-tông khổng lồ được dìm xuống biển, giữ chân đế nhà giàn thêm vững chắc trước mùa bão tố, ảnh Mai Thắng

Ông Nguyễn Tiến Cường kể. Sau sự kiện Gạc Ma tháng 3-1988, Đô đốc Giáp Văn Cương đã đề xuất phải gấp rút triển khai việc xây dựng nhà giàn trên thềm lục địa phía Nam. Ngày 6-11-1988, biên đội tàu HQ -713 và HQ - 668 đi dựng nhà giàn. Trung tá Phạm Xuân Hoa, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 171 Hải quân làm tổng chỉ huy đi trên tàu HQ - 668 .

Chiều ấy, tạm biệt vợ mới cưới, thuyền trưởng Cường xuống tàu. Vợ anh tiễn chồng ra tận cầu cảng, đôi mắt đỏ hoe. Nhìn vợ, Cường động viên: “Biển rộng lớn nhưng anh nhất định sẽ về”. Cùng tiễn chồng xuống cảng hôm ấy là nhiều người vợ trẻ. Cuộc chia tay bịn rịn, những giọt nước mắt, những lời dặn dò lưu luyến của kẻ ở người đi khiến ai cũng nghẹn ngào. Sau sự kiện Trường Sa năm 1988, đi biển ngày ấy cũng đồng nghĩa với vào chiến trận, không ai biết trước điều gì sẽ xảy ra.

Thời kỳ ấy, tàu hải quân chưa hiện đại như bây giờ, chủ yếu là tàu vỏ sắt nhiều chủng loại. Riêng tàu HQ-668 tiếp nhận về nguyên gốc từ tàu cá của Thái Lan. Với trọng tải 150 tấn, con tàu gỗ nhỏ bé này chật chội không kê được giường. Các chiến sĩ ngủ giàn hàng ngang trên sàn gỗ, tiện chỗ nào thì ngủ chỗ đó chứ không quy định cụ thể.

Ra đi trong gió mùa đông bắc tràn về, biển động dữ dội, con tàu nhỏ bé cứ chồm lên ngụp xuống trong sóng gió. Phương tiện duy nhất trong chuyến hải trình này là chiếc la bàn, hai cuộn dây, sáu cây sào tre để đo độ sâu. Do không có định vị vệ tinh nên biên đội tàu sau ba ngày đã đi lạc vào vùng biển đảo Đá Lát. Đúng lúc đó thì tàu HQ-713 bị vỡ lốc máy. Lệnh của Lữ đoàn trưởng Phạm Xuân Hoa là bằng mọi cách phải khắc phục, sửa chữa. Cạnh đó, tàu HQ-668 khẩn trương tiến về hướng Nam (khu vực bãi cạn Ba Kè), nhanh chóng khảo sát, đo độ sâu.

Dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Cường, các thủy thủ đã dùng dây thừng thắt nút cách nhau từng mét, một đầu buộc đá thả xuống biển. Nước ngập đến đâu, đếm nút thắt dây, tính ra độ sâu đến đó. “Những cây sào dài không phát huy được tác dụng vì dòng chảy mạnh và mực nước sâu đến trên 20 m. Tôi vừa đưa cây sào xuống đã bị dòng chảy mạnh làm gãy đôi. Tất cả đều phải nhờ vào sợi dây thừng” – Trung tá Cường kể.

Sau ba ngày khảo sát, các thủy thủ đã tìm được vị trí tọa độ trùng khớp với tọa độ ghi trên bản đồ, đo được độ sâu tương đối chính xác, thả phao quả nhót đánh dấu. Vị trí khảo sát đầu tiên ở bãi cạn Phúc Tần A đã hoàn thành, các thủy thủ tiếp tục hành trình đến các bãi cạn Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Tần, Phúc Nguyên, Tư Chính và Cà Mau.

Sau khi tìm được bãi cạn và tọa độ xây dựng nhà giàn, ngày 26-11-1988, hai biên đội tàu của Lữ đoàn 171 và Hải đoàn 129 được điều ra các bãi cạn bắt đầu hành trình cắm chốt, chuẩn bị các mặt cần thiết để xây nhà giàn.

Cột mốc đầu tiên mọc giữa trùng khơi

Sau 7 tháng khảo sát, đo độ sâu và canh gác, tháng 5-1989, các biên đội tàu của Lữ đoàn 171 và của Hải đoàn 129 phối hợp với tàu kéo chuyên dụng của Bộ Giao thông Vận tải bắt đầu chở khung nhà giàn cùng vật liệu sắt thép vượt sóng ra bãi cạn Phúc Tần. Giữa biển khơi bao la, giữa cái nắng cháy da cháy thịt, những người thợ đóng giàn ngành dầu khí cùng các chiến sĩ công binh chạy đua với thời gian, chia ca làm việc 24/24 giờ.

Hồi đó phương tiện thông tin thời tiết chủ yếu là nghe Đài Tiếng nói Việt Nam qua chiếc đài bán dẫn nhỏ xíu. Nhiều khi đài báo sóng yên biển lặng nhưng buổi chiều giông gió bất ngờ ập tới, công việc đành phải dừng lại.

Nhà giàn DK1 thế hệ hiện đại vững chắc giữa thềm lục địa, ảnh Mai Thắng
Nhà giàn DK1 thế hệ hiện đại vững chắc giữa thềm lục địa, ảnh Mai Thắng.

Ông Trần Xuân Vọng, nguyên Đoàn trưởng Đoàn 129 Hải quân, nhớ lại: “Có bữa trời đang trong xanh ngăn ngắt, chỉ vài phút sau là sấm chớp ầm ầm, sóng đang lặng lẽ bỗng lừng lững như quả núi. Mặc cho sóng gió, anh em chúng tôi vẫn quyết tâm làm. Có lần một thợ lặn đang định vị dây xích dưới đáy biển thì dây dẫn khí bị đứt. Tình huống cực kỳ nguy cấp, nếu chỉ chậm vài phút sẽ ảnh hưởng đến tính mạng. Chúng tôi khẩn cấp đưa thợ lặn khác xuống cấp cứu, cho vào buồng giảm áp lực mới cứu sống được anh em”.

Công việc đầu tiên là dọn bãi đặt chân đế boong tong. Những người thợ lặn đeo bình ôxy, mặc áo nhái lặn sâu xuống đáy biển, dùng vật chuyên dùng san phẳng bãi san hô rồi khoét sâu một lỗ rộng chừng 60 m để đặt khối pông-tông vào đó. Khối pông-tông kết cấu bằng thép, bán kính chừng 16 m, bơm đầy xi măng vào trong, đánh chìm xuống đáy. Những người thợ lặn vừa phải chống chọi với dòng chảy, vừa “lái” khối pông-tông vào đúng lỗ đã được đào sẵn. Kết nối giữa khối pông-tông và bốn cọc cắm sâu vào san hô là bốn sợi dây xích siêu bền, chịu được sóng to, dòng chảy mạnh.

Công đoạn thứ hai là kết nối pông-tông và khối thượng tầng. Những người lính công binh lại ngụp lặn trong lòng biển để làm những công việc “độc nhất vô nhị” này.

Sau hơn một tháng chạy đua, ngày 10-6-1989, nhà giàn đầu tiên với tên gọi Phúc Tần (DK1/3) hiện hữu giữa thềm lục địa phía Nam Tổ quốc. Các chiến sĩ và những người thợ lặn nhìn nhà giàn mà trào nước mắt. Những giọt nước mắt sung sướng, tự hào hòa lẫn vào lòng biển mẹ. “Từ thế hệ nhà giàn đầu tiên này, đến nay ta đã có một hệ thống nhà giàn hiện đại, vững chãi trấn giữ ở thềm lục địa phía Nam và trở thành phên giậu của Tổ quốc giữa trùng khơi” – Ông Nguyễn Tiến Cường chia sẻ.

Mãi tự hào lính tàu săn ngầm

Theo biên chế mới hiện nay các nhà giàn DK1 không thuộc phạm vi quản lý của Lữ đoàn 171 nữa, song cán bộ chiến sĩ các thế hệ vẫn tự hào hãnh diện, vì họ là những người đầu tiên ra xây dựng và chốt giữ những “cột mốc sống” mang tên DK1.

Huấn luyện SSCĐ ở Tàu 11, Lữ đoàn 171 Hải quân, ảnh Mai Thắng
Huấn luyện SSCĐ ở Tàu 11, Lữ đoàn 171 Hải quân, ảnh Mai Thắng

Kỷ niệm 55 năm thành lập Lữ đoàn 171 Hải quân, do điều kiện dịch Covid-19 phức tạp, Lữ đoàn không tổ chức Lễ kỷ niệm, song tất cả gần 1.000 cán bộ chiến sĩ đều chung một niềm tự hào, bước tiếp truyền thống cha anh đi trước, xây dựng Lữ đoàn 171 chính quy, tinh nhuệ, hiện đại xứng đáng với truyền thống Anh hùng “chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng biển, quyết chiến quyết thắng”.

Đại uý Hà Thị Kim Cúc, nhân viên nhà khách chia sẻ: “Tiếp nối thế hệ cha anh đi trước, chúng tôi có quyền tự hào về thành quả 55 năm qua. Huấn luyện tốt, trau dồi kiến thức, làm chủ vũ khí trang bị hiện đại, xây dựng Lữ đoàn chính quy mẫu mực, đó chính là cống hiến sức lực của mình cho Lữ đoàn”- Đại uý Cúc chia sẻ.

Huấn luyện SSCĐ ở Tàu 11, Lữ đoàn 171 Hải quân, ảnh Mai Thắng
Huấn luyện SSCĐ ở Tàu 11, Lữ đoàn 171 Hải quân, ảnh Mai Thắng

Trung uý Trung đội trưởng Vệ binh- Bùi Thanh Hưng chia sẻ: “Được cống hiến ở Lữ đoàn có bề dày truyền thống hơn nửa thế kỷ, với tôi là một vinh dự. Mỗi chặng đường của Lữ đoàn đều gắn với một chiến công. Những câu chuyện kể của thế hệ cha anh để lại hoặc chép trong lịch sử của Lữ đoàn, là hành trang để thế hệ chúng tôi tiếp bước, tự hào và noi theo. Là sĩ quan trẻ, cống hiến sức lực, trí tuệ cho Lữ đoàn, cũng là điều phấn đấu”- Trung uý Hưng, tự hào.

Mai Thắng

Cần cái nhìn công bằng với doanh nghiệp nộiCần cái nhìn công bằng với doanh nghiệp nội
Doanh nghiệp phân bón trong nước đồng hành với bà con nông dân vượt qua cơn biến động thị trườngDoanh nghiệp phân bón trong nước đồng hành với bà con nông dân vượt qua cơn biến động thị trường
(Kỳ 2) Chinh phục Hải Thạch - Mộc Tinh(Kỳ 2) Chinh phục Hải Thạch - Mộc Tinh