Bủa vây khó khăn vì Covid-19, kinh tế Việt Nam sắp tới “trông chờ" vào đâu?

10:38 | 24/04/2020

304 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo chuyên gia Phạm Thế Anh, Việt Nam thiếu vắng các đệm tài khóa để ứng phó với những cú sốc đòi hỏi tiêu tốn nhiều nguồn lực như Covid–19.

Bủa vây khó khăn vì Covid-19, kinh tế Việt Nam sắp tới “trông chờ

Ngay cả khi bệnh dịch trong nước được kiểm soát hoàn toàn thì nhiều ngành dịch vụ và sản xuất hướng ra xuất khẩu có thể sẽ còn gặp khó khăn

Quý 2, kinh tế sẽ “thấm đòn" nặng hơn

Trong bản báo cáo triển vọng kinh tế thế giới gần đây vào giữa tháng 4/2020, Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự báo rằng kinh tế toàn cầu năm nay sẽ suy giảm khoảng 3%.

Kinh tế Việt Nam không đứng ngoài vòng xoáy tiêu cực. Tăng trưởng GDP quý 1/2020 so với cùng kỳ năm trước chỉ đạt 3,82%, thấp nhất trong vòng 11 năm qua.

Tuy nhiên, theo PGS.TS Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), những con số tăng trưởng này chưa phản ánh hết những khó khăn mà nền kinh tế đang phải trải qua khi nhiều đơn hàng xuất khẩu mới chỉ bắt đầu bị ảnh hưởng từ giữa tháng 3 hay các biện pháp giãn cách xã hội ở Việt Nam mới chỉ được thực hiện một cách chặt chẽ bắt đầu từ quý 2.

Bủa vây khó khăn vì Covid-19, kinh tế Việt Nam sắp tới “trông chờ

Một rủi ro rất lớn của nền kinh tế được ông Phạm Thế Anh đề cập tới, đó là hụt thu ngân sách.

“Đặc biệt, những con số tăng trưởng này cũng không phản ánh được những khó khăn thực sự của khu vực phi chính thức vốn hầu như không được phản ánh trong thống kê GDP”, chuyên gia Phạm Thế Anh nói.

Một rủi ro rất lớn của nền kinh tế được ông Phạm Thế Anh đề cập tới, đó là hụt thu ngân sách. Tổng thu ngân sách năm nay nhiều khả năng sẽ không đạt kế hoạch đề ra do sự sụt giảm thu nhập và thắt chặt chi tiêu của cả doanh nghiệp lẫn người lao động.

Trong khi đó, tổng chi ngân sách lại có nguy cơ vượt dự toán do các khoản chi tiêu phát sinh nhằm giảm thiểu tác động của bệnh dịch.

Bộ Tài chính ước tính, thu ngân sách năm nay sẽ giảm khoảng 140–150 nghìn tỷ đồng, làm tăng thâm hụt ngân sách lên mức 5–5,1% GDP.

Các kịch bản kinh tế Việt Nam

PGS.TS Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng của VEPR cho rằng, triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2020 và xa hơn phụ thuộc vào khả năng khống chế bệnh dịch không chỉ trong nước mà còn ở cả trên thế giới.

Kịch bản lạc quan nhất được xây dựng dựa trên giả định bệnh dịch trong nước được khống chế hoàn toàn vào giữa tháng 5 và hoạt động kinh tế dần trở lại bình thường.

Khi đó, thế giới cũng bắt đầu nới dần các biện pháp phong tỏa. Tuy nhiên các hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch, lưu trú, vận tải hành khách vẫn còn dè dặt và chỉ dần hồi phục.

“Tác động xấu nhất của Covid–19 sẽ rơi vào quý 2 với mức suy giảm từ 2 – 3% trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp”, ông Phạm Thế Anh dự báo.

Còn các ngành vận tải và kho bãi, dịch vụ lưu trú và ăn uống, nghệ thuật và giải trí giảm mạnh, từ 20 – 50%, trong khi đó y tế, truyền thông hay tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có thể duy trì mức tăng trưởng khá do những hoạt động liên quan đến phòng chống và khắc phục hậu quả của bệnh dịch.

“Với kịch bản lạc quan này, tăng trưởng kinh tế Việt Nam được dự báo đạt khoảng 4,2% trong cả năm 2020”, ông Phạm Thế Anh nhận định.

Còn với các kịch bản trung tính hoặc bi quan, bệnh dịch trong nước được giả định kéo dài hơn sang nửa sau quý 3 thậm chí là quý 4 năm 2020. Thế giới có thể phải tiếp tục các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội do sự tái phát của bệnh dịch ở nhiều trung tâm kinh tế tài chính quan trọng.

Mức độ tác động của Covid–19 lên các ngành nông lâm ngư nghiệp, sản xuất chế biến chế tạo và các ngành trong khu vực dịch vụ sẽ nghiêm trọng hơn. Mức tăng trưởng trong năm 2020 của kinh tế Việt Nam có thể chỉ là 1,5% trong kịch bản trung tính, hoặc thậm chí là – 1,0% trong kịch bản bi quan.

“Trong bất kỳ kịch bản nào, trong thời kỳ hậu Covid–19 ở Việt Nam, sự phục hồi hoàn toàn của nhiều ngành như hàng không, du lịch hay thời trang xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn và kéo dài một khi thế giới chưa khống chế hoàn toàn được bệnh dịch. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động thích ứng dịch chuyển sản xuất trong thời kỳ khó khăn”, ông Phạm Thế Anh nói.

Về sản xuất khẩu trang và đồ bảo hộ y tế là một ví dụ điển hình trong ngành dệt may khi trong thời kỳ hậu bệnh dịch các nước nhiều khả năng sẽ tăng cường các kho hàng dự trữ y tế của mình để phòng chống những cú sốc tương tự trong tương lai, ông Phạm Thế Anh cho biết.

Việt Nam thiếu vắng các đệm tài khóa để ứng phó với những cú sốc như Covid–19

Theo chuyên gia Phạm Thế Anh, trong ngắn hạn, thúc đẩy đầu tư công trong nửa sau của năm có thể bù đắp được những khó khăn tạm thời của nhiều ngành sản xuất.

Tuy nhiên, chúng ta không thể thúc đẩy chi tiêu công mãi trong dài hạn do nguồn lực hạn hẹp. Do vậy, theo vị chuyên gia, triển vọng kinh tế Việt Nam những năm sau sẽ phụ thuộc nhiều vào việc phát triển thành công vắc–xin hoặc thuốc đặc trị trên thế giới.

“Với thâm hụt tài khóa kéo dài dai dẳng trong nhiều thập kỷ qua Việt Nam là nước có nguồn lực tài khóa hạn hẹp. Ngay cả trong các năm nền kinh tế có tăng trưởng cao, thu ngân sách vượt dự toán, thì nhà nước vẫn chi nhiều hơn thu tối thiểu khoảng 3,5% GDP. Do vậy, Việt Nam thiếu vắng các đệm tài khóa để ứng phó với những cú sốc đòi hỏi tiêu tốn nhiều nguồn lực như Covid–19”, ông Phạm Thế Anh chỉ rõ.

Bên cạnh đó, theo vị này, chính sách tiền tệ cũng bị ràng buộc bởi các mục tiêu về lạm phát và tỷ giá. Nếu thực hiện nới lỏng tiền tệ với quy mô lớn như nhiều nền kinh tế hiện nay thì có thể dẫn đến mất giá tiền tệ, môi trường đầu tư trở nên rủi ro hơn và ít nhất là làm trì hoãn các dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Với các nguồn lực hạn hẹp như vậy, ông Phạm Thế Anh nhấn mạnh: Các chính sách cần phải đúng trọng tâm, tránh dàn trải gây tốn kém nguồn lực.

Do vậy, các kịch bản ứng phó chính sách khác nhau đối với các cấp độ về bệnh dịch nên được xây dựng.

Các chính sách an sinh xã hội như chi trả bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ người bị tạm thời ngưng việc, trợ cấp cho người nghèo, người bị mất kế sinh nhai do tác động của giãn cách xã hội nên được ưu tiên hàng đầu và cần phải được triển khai nhanh chóng trước khi người dân rơi vào những bi kịch không đáng có.

Ông Phạm Thế Anh cũng nhấn mạnh, đối với các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng cần có sự phân loại và tập trung hơn.

Song song với thúc đẩy đầu tư công, cần cắt giảm ngân sách chi thường xuyên

Đó là khuyến nghị của ông Phạm Thế Anh đưa ra trong bối cảnh đất nước phải gồng minh lên vì khó khăn hiện nay, trong khi nguồn lực thì hạn chế.

Theo vị này, ngay cả khi bệnh dịch trong nước được kiểm soát hoàn toàn thì nhiều ngành dịch vụ và sản xuất hướng ra xuất khẩu có thể sẽ còn gặp khó khăn lâu dài một khi bệnh dịch còn chưa hoàn toàn biến mất ở các khu vực kinh tế – tài chính quan trọng trên thế giới.

Do vậy, theo chuyên gia Phạm Thế Anh, thúc đẩy đầu tư công trong nửa cuối năm là việc nên làm để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Theo vị này, việc chia nhỏ ra làm nhiều gói thầu và thực hiện rải rác ở nhiều địa phương để nhiều doanh nghiệp và nhiều địa phương có thể tiếp cận, tạo sự lan tỏa tốt hơn cũng có thể được cân nhắc.

Đồng thời cần cắt giảm ngân sách thường xuyên (tiêu dùng) tối thiểu 10% nhằm dành nguồn lực cho việc khắc phục những hậu quả do bệnh dịch gây ra.

“Trong khó khăn, nhiều bất cập trong việc điều hành chính sách kinh tế cũng đã bộc lộ nên các nỗ lực cải thiện môi trường thể chế kinh doanh cần tiếp tục được duy trì. Đặc biệt, dù có chậm trễ, Việt Nam nên từng bước xây dựng đệm tài khóa để phòng chống những cú sốc kiểu Covid–19”, ông Phạm Thế Anh nhận định.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC HCM 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,650 ▲400K 74,600 ▲400K
Nguyên liệu 999 - HN 73,550 ▲400K 74,500 ▲400K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
TPHCM - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Hà Nội - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Hà Nội - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Miền Tây - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Miền Tây - SJC 82.700 ▲700K 84.900 ▲600K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.300 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.300 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.250 ▲350K 74.050 ▲350K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.290 ▲260K 55.690 ▲260K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.070 ▲200K 43.470 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.560 ▲150K 30.960 ▲150K
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,325 ▲20K 7,530 ▲20K
Trang sức 99.9 7,315 ▲20K 7,520 ▲20K
NL 99.99 7,320 ▲20K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,300 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,390 ▲20K 7,560 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,800 ▲800K 85,000 ▲700K
SJC 5c 82,800 ▲800K 85,020 ▲700K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,800 ▲800K 85,030 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,350 ▲250K 75,050 ▲250K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,350 ▲250K 75,150 ▲250K
Nữ Trang 99.99% 73,150 ▲250K 74,250 ▲250K
Nữ Trang 99% 71,515 ▲248K 73,515 ▲248K
Nữ Trang 68% 48,145 ▲170K 50,645 ▲170K
Nữ Trang 41.7% 28,615 ▲104K 31,115 ▲104K
Cập nhật: 26/04/2024 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,274 16,374 16,824
CAD 18,299 18,399 18,949
CHF 27,290 27,395 28,195
CNY - 3,455 3,565
DKK - 3,592 3,722
EUR #26,695 26,730 27,990
GBP 31,269 31,319 32,279
HKD 3,160 3,175 3,310
JPY 158.97 158.97 166.92
KRW 16.59 17.39 20.19
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,269 2,349
NZD 14,836 14,886 15,403
SEK - 2,277 2,387
SGD 18,166 18,266 18,996
THB 630.72 675.06 698.72
USD #25,119 25,119 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25115 25115 25445
AUD 16316 16366 16868
CAD 18338 18388 18839
CHF 27474 27524 28086
CNY 0 3458.5 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26898 26948 27650
GBP 31401 31451 32111
HKD 0 3140 0
JPY 160.45 160.95 165.46
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0313 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14883 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18403 18453 19014
THB 0 643.1 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 12:00