“Bắt mạch” doanh nghiệp nhỏ và vừa (Kỳ 2)

06:00 | 07/02/2017

1,040 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Những năm qua, mặc dù đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) phát triển, “trưởng thành” nhưng theo thống kê, Việt Nam hiện có tới 96% doanh nghiệp là DNNVV. Và vì quá là “nhỏ” và “vừa” nên quy mô về vốn, về lao động, năng lực cạnh tranh yếu, khiến khả năng tận dụng cơ hội từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế rất hạn chế. Việc nhận diện những nút thắt trong quá trình hình thành và phát triển của khu vực doanh nghiệp (DN) này nhằm đưa ra các chính sách, giải pháp hỗ trợ phù hợp, kịp thời vì thế đang là đòi hỏi cấp bách đối với nền kinh tế!

Bài 2: Cần những giải pháp đột phá

Năng lực kém, công nghệ lạc hậu

Tại một cuộc hội thảo mới đây, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc khi nói đến vai trò của cộng đồng DNNVV đã nhấn mạnh đây là “cầu nối”, là “hạt nhân”, mắt xích trong quá trình hội nhập kinh tế. Một nền kinh tế muốn hội nhập, phát triển cần phải có một đội ngũ DNNVV đủ tầm để cụ thể hóa các lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế, tạo động lực, nền tảng phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, có một thực tế, phần lớn DN của Việt Nam hiện là nhỏ và siêu nhỏ. Vì là nhỏ và siêu nhỏ nên năng lực quản trị, trình độ công nghệ, quy mô về vốn… cũng nhỏ và siêu nhỏ nên không đủ tầm để tham gia vào chuỗi giá trị, cung ứng sản phẩm toàn cầu.

Vì sao lại có thực tế này khi những năm qua, Việt Nam đã có rất nhiều chính sách nhằm hỗ trợ khu vực DN này “trưởng thành”? Theo một kết quả khảo sát của VCCI, nguyên nhân của tình trạng này là có tới 77% DN siêu nhỏ, 68% DN nhỏ đi lên từ mô hình hộ kinh doanh, phần lớn vẫn quẩn quanh ở thị trường nội địa; chỉ có 3% DN siêu nhỏ, 4% DN nhỏ và gần 9% DN vừa có khách hàng là cá nhân hoặc DN ở nước ngoài. Trong khi có xuất phát điểm hạn chế như vậy nhưng cũng chỉ có khoảng 30% DNVVN tiếp cận được vốn từ ngân hàng, 70% còn lại phải sử dụng vốn tự có hoặc vay từ nguồn khác, có nhiều DN phải vay với lãi suất cao 15-18%.

bat mach doanh nghiep nho va vua ky 2
Một góc Khu công nghiệp Long Hậu (Tiền Giang)

Không chỉ nhỏ về quy mô, trình độ công nghệ của các DNNN cũng rất yếu khi số lượng nhà khoa học, chuyên gia làm việc trong các DN chỉ chiếm 0,025% trong tổng số lao động làm việc trong khu vực DN. Khoảng 80-90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các DN của Việt Nam là nhập khẩu, có loại từ thập niên 80-90 của thế kỷ trước, 75% máy móc và trang thiết bị đã hết khấu hao. Khảo sát do Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) và Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương thực hiện tại 100 đơn vị ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh về tình hình sử dụng thiết bị công nghệ và tư vấn công nghệ của các DN Việt Nam cho thấy, mức đầu tư cho đổi mới thiết bị và công nghệ rất thấp, chỉ chiếm 3% doanh thu cả năm…

Cũng chính bởi quy mô về vốn, về năng lực quản trị, công nghệ như vậy nên theo GS.TSKH Nguyễn Mại - Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài (VAFIE), hiện chỉ có 21% DNNVV của Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, trong khi con số này của Thái Lan là trên 30% và Maylaysia là 46%. Vì ít tham gia chuỗi giá trị toàn cầu nên khả năng được hưởng lợi từ hiệu ứng lan tỏa của khối DN FDI thông qua chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và nâng cao năng suất cũng rất hạn chế.

Quy mô nhỏ và siêu nhỏ, lại khó tiếp cận vốn vay… nhưng khả năng thông tin thị trường của DNNVV cũng rất khó khăn. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 75% DNNVV cho biết họ phải cậy nhờ đến các mối quan hệ để tiếp cận thông tin. Bên cạnh đó, 54% DN siêu nhỏ và nhỏ cho biết “thỏa thuận về các khoản thuế phải nộp với cán bộ thuế là công việc quan trọng trong kinh doanh”. Khoảng 65% DN nhỏ và siêu nhỏ cho biết thường xuyên phải trả chi phí không chính thức. Ngoài ra, chỉ 51-61% DNNVV có thông tin về các chính sách ưu đãi của các cơ quan trung ương và địa phương, thấp hơn nhiều so với nhóm DN lớn (77%)…

Tháo gỡ nút thắt

Hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội phát triển, mở rộng thị trường cho cộng đồng DN nhưng cũng lại đặt cộng đồng DN trước áp lực cạnh tranh rất lớn. Vì vậy, GS.TSKH Nguyễn Mại cảnh báo, nếu không có chính sách và giải pháp hỗ trợ hiệu quả, DNNVV có nguy cơ “chết yểu” ngay trong thị trường trong nước.

Theo đó, một trong những vấn đề cấp bách hiện nay để hỗ trợ DNNVV phát triển là phải tháo gỡ nút thắt về vốn. Để làm được điều này thì cần đổi mới quy định về tiền vay và điều kiện vay theo hướng phù hợp với nhược điểm của DN về tài sản thế chấp. Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ phải sinh lợi để phát triển, nhưng còn có chức năng là “phao cứu sinh”, chia sẻ rủi ro với DN. Nếu thay đổi cơ bản phương thức vay tín dụng như vậy thì DNVVN mới có điều kiện để vay tín dụng ngân hàng khi cần thiết.

Về tiếp cận thị trường, đây là nguồn sống cho DN vì trong thế giới hiện đại sự biến động của thị trường liên tục, khó dự báo, chỉ những DN thích ứng với sự biến động đó thì mới vượt qua mọi thử thách, nắm bắt cơ hội để phát triển. Vì vậy, Chính phủ cần có chính sách khuyến khích việc hình thành các chuỗi giá trị bằng các ưu đãi thuế đối với tập đoàn kinh tế, DN lớn chủ động tổ chức hình thành được các chuỗi giá trị. Ví như Vingroup đã chủ động tổ chức liên kết theo chuỗi với 250 DN sản xuất nông nghiệp. Theo đó sản phẩm cung ứng cho các siêu thị của tập đoàn này không bị trừ chiết khấu làm cho các DN tiết kiệm được chị phí. Trong khi một số siêu thị nước ngoài nâng tỷ lệ chiết khấu khi đưa hàng vào siêu thị của họ thì việc làm của Vingroup rất có ý nghĩa đối với nâng cao năng lực cạnh tranh DN Việt Nam trên thị trường nội địa.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần có chính sách khuyến khích các công ty lớn, tập đoàn kinh tế, những nhà hảo tâm góp vốn thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, đồng thời ban hành chính sách khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam nhằm tạo ra nguồn lực cho DN mới ra đời, trong đó có DN khởi nghiệp; có chính sách khuyến khích mạnh mẽ, tổ chức thường xuyên các cuộc bình chọn thực chất và khoa học đối với DNVVN thu được kết quả tiêu biểu trong đầu tư nghiên cứu, đổi mới, sáng tạo có, để tăng số bằng sáng chế, phát minh, sản phẩm và dịch vụ mới của DN; cần rà soát để sửa đổi, bổ sung điều lệ các quỹ hỗ trợ DN về đầu tư đổi mới công nghệ…

Đặc biệt, theo các chuyên gia nếu đạt được mục tiêu 1 triệu DN vào năm 2020 mà phần lớn là DNVVN thì nhu cầu cán bộ quản trị DN sẽ rất lớn. Vì vậy, ngay từ lúc này, Chính phủ cần có chủ trương thành lập hệ thống trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản trị DN, không thể để tình trạng chắp vá kéo dài khi nước ta đã tham gia Cộng đồng kinh tế ASEAN và hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Cùng với đó, Chính phủ cần có chính sách khuyến khích DNVVN áp dụng công nghệ hiện đại trong quản trị DN, kế toán DN, nộp thuế, đóng bảo hiểm xã hội qua mạng Internet…

Đối với vấn đề đất đai và mặt bằng sản xuất, GS.TSKH Nguyễn Mại đề xuất Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cơ quan Nhà nước quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế - cần cần nghiên cứu thực trạng tiền thuê đất và mặt bằng sản xuất tại các khu này để đưa ra chỉ dẫn của Chính phủ theo hướng vừa bảo đảm lợi ích hợp lý của chủ đầu tư, vừa bảo vệ quyền lợi của DN.

Nguyễn Sơn

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 11,340
Trang sức 99.9 10,760 11,330
NL 99.99 10,770
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 15:00