Xử lý nợ xấu đúng hướng

14:15 | 17/11/2014

544 lượt xem
|
Trong chuyển động của bất cứ nền kinh tế nào, yếu tố tư vấn, gợi ý và quan tâm đúng mực từ các định chế tài chính, tổ chức quốc đều rất quan trọng. Quá trình tái cơ cấu của Việt Nam cũng không phải ngoại lệ...

Năng lượng Mới số 372

Công khai, minh bạch và nghiêm túc

Theo báo cáo của các tổ chức tín dụng, tỷ lệ nợ xấu hiện nay vào khoảng 3,8% và có xu hướng giảm (tháng 6 là 4,17%; tháng 7 là 4,11%; tháng 8 là 3,9%). Còn theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), tỷ lệ nợ xấu đến nay giảm còn 5,43% so với mức 17% vào năm 2012 (tỷ lệ nợ xấu do NHNN đánh giá cao hơn là do thực hiện phân loại nợ theo thông tin giám sát).

Mới đây, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) công bố bản tổng hợp nhận định của các tổ chức quốc tế và định chế tài chính rằng, kinh tế vĩ mô 10 tháng năm 2014 của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Cụ thể, sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng dù tốc độ thấp, lạm phát được kiểm soát, xuất khẩu tiếp tục là điểm sáng, giải ngân FDI duy trì tăng trưởng khá, thị trường ngoại hối ổn định, thanh khoản ngân hàng đảm bảo, tín dụng có xu hướng tăng tốc, thị trường bất động sản tiếp tục có những chuyển biến tích cực. 

Phòng giao dịch của Ngân hàng BIDV

Bản tổng hợp cho hay, thời gian qua có nhiều báo cáo, bài viết, tin liên quan đến tình hình kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam. Điều đáng nói là lượng thông tin trên có đúng, có sai, thậm chí nhiều tin, bài viết của hãng thông tấn, báo đài nước ngoài không thực sự phản ánh sát thực tình hình kinh tế vĩ mô, xu hướng của nền kinh tế cũng như lĩnh vực tài chính ngân hàng của Việt Nam. Chỉ những tổ chức quốc tế, định chế tài chính quốc tế có uy tín hàng đầu như IMF, World Bank, ADB, HSBC... và các chuyên gia kinh tế quốc tế có uy tín đã có những phân tích, đánh giá sát thực, nhận định tích cực về tình hình kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính ngân hàng cũng như quá trình tái cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam.

Nhìn chung các nhận định của các tổ chức quốc tế trên là  sát thực với tình hình kinh tế của Việt Nam. Báo cáo của ADB, mặc dù dự báo tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn ước tính và mục tiêu của Việt Nam nhưng những yếu tố hỗ trợ tăng trưởng được chỉ ra phù hợp với thực tế Việt Nam. Năm 2014, Chính phủ vẫn tiếp tục điều hành nền kinh tế theo mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng ở mức hợp lý và nhận định của IMF lạm phát thấp được đánh đổi bằng tỷ lệ tăng trưởng ở mức vừa phải cũng phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. HSBC thường công bố báo cáo về tình hình kinh tế Việt Nam trong nhiều năm, dựa trên nhận định viễn cảnh tích cực về kinh tế Việt Nam, HSBC đã có nhiều chi nhánh và có kế hoạch mở rộng kinh doanh ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, các tổ chức quốc tế tiếp tục ghi nhận tích cực khách quan về những kết quả bước đầu thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam cũng như nhấn mạnh vai trò của tái cơ cấu trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. IMF, WB, HSBC, ANZ cũng chỉ ra được những nhiệm vụ, yêu cầu  sát thực để đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế. Báo cáo của IMF, bên cạnh ghi nhận những kết quả của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, thực tế công tác tái cơ cấu doanh nghiệp đòi hỏi các biện pháp cụ thể, quyết liệt hơn để đổi mới mô hình quản trị, tăng năng suất lao động. Báo cáo của HSBC nhìn nhận tái cơ cấu DNNN vẫn còn chậm nhưng cũng cho rằng đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc NHNN đã xác định các ngân hàng yếu kém, ổn định tỷ giá, xử lý nợ xấu. Nhận định của TS Michael Krakowski tương đối chính xác về những kết quả đạt được của tiến trình tái cơ cấu kinh tế trong năm 2014.

Ổn định khả năng thanh khoản

Về thị trường tài chính ngân hàng, Kinh tế trưởng WB tại Việt Nam Sandeep Mahajan cho rằng: Thị trường tiền tệ Việt Nam trong 2 năm vừa qua đã cải thiện nhiều và chính sách tiền tệ hiện nay phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát của NHNN trong thời gian gần đây. Giám đốc WB Việt Nam Victoria Kwakwa cũng cho rằng: Chính sách tiền tệ của Việt Nam nhìn chung đi đúng hướng, ông cũng cho rằng các biện pháp xử lý nợ xấu hiện nay của Việt Nam mà đặc biệt là VAMC đã đi đúng hướng, giúp các ngân hàng sẵn sàng mở rộng cho vay.

Báo cáo cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam phát hành bởi WB vào tháng 7/2014 đã nhận định hiện nay khu vực ngân hàng hiện đang trong tình trạng ổn định tương đối. Đồng thời WB cũng ghi nhận những nỗ lực của cơ quan quản lý trong tăng cường năng lực hệ thống thời gian qua, trong đó điển hình là: Các cơ quan chức năng đã giải quyết một cách thành công những áp lực về thanh khoản; việc ban hành Thông tư 02 về phân loại nợ và trích lập dự phòng là một bước đi đúng hướng, Nghị định 01 được ban hành vào tháng 1/2014 hiện đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ cổ phần với tỷ lệ cao hơn trong các trường hợp đặc biệt và cần được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, và NHNN đã đề ra chỉ tiêu thực hiện được 6-7 vụ mua lại và sáp nhập trong khu vực ngân hàng vào năm 2014 và giảm một nửa số ngân hàng thương mại trong vòng 3 năm tới.

Báo cáo cũng đưa ra gợi ý để hoạt động của VAMC hiệu quả hơn: VAMC cần xây dựng được một chiến lược rõ ràng nhằm giải quyết những tài sản xấu. Ngoài ra, quy định hiện hành của NHNN và khung tái cấu trúc doanh nghiệp cần được nâng cấp để có thể giải quyết dứt điểm vấn đề nợ xấu một cách hiệu quả.

Mới đây tại báo cáo vào ngày 16-10 của IMF cũng đánh giá: Việt Nam duy trì chính sách tiền tệ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế là thích hợp miễn là trong điều kiện không có áp lực lạm phát. Cơ sở để Việt Nam thực hiện điều này là nguồn cung hiện đang dư thừa, tăng trưởng dưới mức tiềm năng, lạm phát cơ bản đã giảm và áp lực tiền lương là lành tính. Tại thời điểm này, chính sách tiền tệ nới lỏng không gây nguy hiểm cho sự ổn định tài chính. Về tỷ giá, IMF cũng có đánh giá tương đối tích cực: sự linh hoạt hơn của tỷ giá hối đoái sẽ giúp hấp thụ những cú sốc bên ngoài và tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối. 

Về tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng, dự báo trong năm 2015, tình hình thanh khoản của hệ thống NHTM tiếp tục được ổn định do các yếu tố ổn định vĩ mô hỗ trợ và tăng trưởng tín dụng chưa có nhiều bứt phá. Theo đánh giá của Moody’s, một số ngân hàng đã gia tăng đảm bảo an toàn khi đảm bảo được thanh khoản và kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng theo đúng chiến lược phát triển của ngân hàng, điển hình như VIB. Vấn đề về an toàn thanh khoản đối với USD đang có dấu hiệu căng thẳng do các khách hàng đang có xu hướng muốn vay ngoại tệ do khoảng cách lãi suất trong khi lãi suất tiền gửi phải tuân thủ theo quy định của NHNN, tỷ lệ dư nợ, huy động vốn USD đang gia tăng.

Đối chiếu với thực tế diễn ra trên thị trường có thể thấy các nhận định này đã phản ánh khá chính xác, chân thực tình hình và trùng với nhận định của BIDV. Việc đưa VAMC vào hoạt động là tích cực với việc VAMC đã nhanh chóng gom nợ xấu về một mối giúp hệ thống ngân hàng giảm nhanh nợ xấu và có điều kiện sẵn sàng mở rộng cho vay. Thời gian tới, VAMC sẽ tập trung vào công tác xử lý nợ xấu, theo đó dự kiến hoạt động của VAMC sẽ thông suốt từ khâu thu nợ. Đánh giá chung kết quả xử lý nợ xấu đã đạt được đến nay là khả quan trong điều kiện Việt Nam không sử dụng tiền ngân sách để xử lý nợ xấu (theo kinh nghiệm xử lý nợ của các quốc gia khác trên thế giới như Trung Quốc, Đài Loan đều sử dụng một lượng lớn tiền từ ngân sách để xử lý nợ xấu).

Lê Tùng

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 145,400 ▼800K 148,300 ▼900K
Hà Nội - PNJ 145,400 ▼800K 148,300 ▼900K
Đà Nẵng - PNJ 145,400 ▼800K 148,300 ▼900K
Miền Tây - PNJ 145,400 ▼800K 148,300 ▼900K
Tây Nguyên - PNJ 145,400 ▼800K 148,300 ▼900K
Đông Nam Bộ - PNJ 145,400 ▼800K 148,300 ▼900K
Cập nhật: 27/10/2025 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,690 ▼30K 14,840 ▼80K
Miếng SJC Nghệ An 14,690 ▼30K 14,840 ▼80K
Miếng SJC Thái Bình 14,690 ▼30K 14,840 ▼80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,540 ▼180K 14,840 ▼80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,540 ▼180K 14,840 ▼80K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,540 ▼180K 14,840 ▼80K
NL 99.99 14,480 ▼180K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,480 ▼180K
Trang sức 99.9 14,470 ▼180K 14,830 ▼80K
Trang sức 99.99 14,480 ▼180K 14,840 ▼80K
Cập nhật: 27/10/2025 19:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,469 ▼3K 14,842 ▼80K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,469 ▼3K 14,843 ▼80K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 145 ▼1316K 1,475 ▼11K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 145 ▼1316K 1,476 ▼11K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,435 ▼11K 1,465 ▼11K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,055 ▼127584K 14,505 ▼131634K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 102,536 ▼825K 110,036 ▼825K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,228 ▼83800K 9,978 ▼90550K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,024 ▼671K 89,524 ▼671K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,068 ▼641K 85,568 ▼641K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,747 ▼458K 61,247 ▼458K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,469 ▼3K 1,484 ▼8K
Cập nhật: 27/10/2025 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16715 16984 17561
CAD 18291 18567 19181
CHF 32387 32770 33416
CNY 0 3470 3830
EUR 29976 30249 31272
GBP 34298 34689 35618
HKD 0 3256 3458
JPY 165 169 175
KRW 0 17 19
NZD 0 14845 15429
SGD 19747 20029 20549
THB 719 783 836
USD (1,2) 26040 0 0
USD (5,10,20) 26081 0 0
USD (50,100) 26110 26129 26351
Cập nhật: 27/10/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,110 26,110 26,351
USD(1-2-5) 25,066 - -
USD(10-20) 25,066 - -
EUR 30,166 30,190 31,358
JPY 168.75 169.05 176.24
GBP 34,631 34,725 35,580
AUD 16,954 17,015 17,468
CAD 18,504 18,563 19,103
CHF 32,705 32,807 33,517
SGD 19,886 19,948 20,587
CNY - 3,647 3,747
HKD 3,331 3,341 3,426
KRW 17 17.73 19.05
THB 768.98 778.48 829.02
NZD 14,869 15,007 15,366
SEK - 2,763 2,846
DKK - 4,033 4,154
NOK - 2,594 2,671
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,845.13 - 6,561.45
TWD 774.18 - 932.89
SAR - 6,907.41 7,236.69
KWD - 83,642 88,519
Cập nhật: 27/10/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,170 26,171 26,351
EUR 30,052 30,173 31,254
GBP 34,474 34,612 35,547
HKD 3,325 3,338 3,440
CHF 32,524 32,655 33,539
JPY 168.40 169.08 175.78
AUD 16,865 16,933 17,455
SGD 19,957 20,037 20,550
THB 785 788 822
CAD 18,492 18,566 19,077
NZD 14,931 15,409
KRW 17.66 19.29
Cập nhật: 27/10/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26169 26169 26351
AUD 16893 16993 17603
CAD 18469 18569 19178
CHF 32642 32672 33559
CNY 0 3667.1 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30166 30196 31222
GBP 34604 34654 35765
HKD 0 3390 0
JPY 168.69 169.19 176.23
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.191 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14954 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19908 20038 20766
THB 0 748.9 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 14690000 14690000 14840000
SBJ 13000000 13000000 14840000
Cập nhật: 27/10/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,114 26,164 26,351
USD20 26,114 26,164 26,351
USD1 26,114 26,164 26,351
AUD 16,871 16,971 18,083
EUR 30,268 30,268 31,583
CAD 18,389 18,489 19,802
SGD 19,953 20,103 20,571
JPY 168.78 170.28 174.87
GBP 34,613 34,763 35,850
XAU 14,738,000 0 14,892,000
CNY 0 3,545 0
THB 0 784 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 27/10/2025 19:00