Việt Nam tăng trưởng cao trong năm 2022

13:00 | 16/08/2022

285 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Theo Ngân hàng Thế giới (WB), GDP của Việt Nam được dự báo tăng mạnh từ 2,6% trong năm 2021 lên 7,5% trong năm 2022; lạm phát tăng khoảng 3,8%. Quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam tăng tốc nhờ khu vực chế biến chế tạo đứng vững và các ngành dịch vụ phục hồi mạnh mẽ.
Việt Nam tăng trưởng cao trong năm 2022
Kinh tế Việt Nam được phục hồi nhờ khu vực chế tạo chế biến đứng vững

Ngày 8-8-2022, tại Hà Nội, WB tại Việt Nam tổ chức công bố báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam, ấn phẩm tháng 8-2022 với tựa đề “Giáo dục để tăng trưởng”.

Báo cáo đề cập tới những diễn biến mới nhất của kinh tế Việt Nam, đưa ra những dự báo về triển vọng ngắn hạn và trung hạn của nền kinh tế cũng như những nhận định về rủi ro nội tại và bên ngoài liên quan đến tăng trưởng của Việt Nam.

Báo cáo nhận định, quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam tăng tốc trong 6 tháng qua, nhờ khu vực chế biến chế tạo đứng vững và các ngành dịch vụ phục hồi mạnh mẽ. Vì vậy, theo WB, tăng trưởng GDP được dự báo tăng từ 2,6% trong năm 2021 lên 7,5% trong năm 2022, lạm phát khoảng 3,8%.

Báo cáo phân tích, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 5,2% trong quý IV/2021, 5,1% trong quý I/2022 và 7,7% trong quý II/2022, khi người tiêu dùng “thỏa mãn” những nhu cầu dồn nén trước đó và số lượt du khách quốc tế tăng.

Tuy nhiên, triển vọng tích cực đó vẫn phụ thuộc vào những rủi ro đang gia tăng, đe dọa đến viễn cảnh phục hồi kinh tế. Rủi ro bao gồm tăng trưởng chậm lại hoặc lạm phát diễn ra ở những thị trường xuất khẩu chủ lực, cú sốc giá cả hàng hóa thế giới, các chuỗi cung ứng toàn cầu tiếp tục bị gián đoạn hoặc các biến chủng Covid-19 mới tiếp tục xuất hiện; bên cạnh đó còn có những thách thức trong nước như thiếu hụt lao động, rủi ro lạm phát gia tăng, rủi ro cao trong khu vực tài chính...

Trong bối cảnh quá trình phục hồi kinh tế trong nước mới chỉ bắt đầu, triển vọng về nhu cầu trên toàn cầu đang yếu đi, rủi ro lạm phát gia tăng, báo cáo của WB khuyến nghị các cấp có thẩm quyền cần chủ động ứng phó.

Trước mắt, liên quan đến chính sách tài khóa, trọng tâm nên nhằm vào tập trung triển khai gói chính sách hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế, đồng thời mở rộng mạng lưới an sinh xã hội có mục tiêu giúp người nghèo và những người dễ tổn thương chống đỡ tác động của cú sốc giá nhiên liệu cũng như lạm phát gia tăng.

Trong khu vực tài chính, WB khuyến nghị cần theo dõi chặt chẽ và tăng cường dự phòng nợ xấu, đồng thời ban hành cơ chế xử lý tình trạng mất khả năng trả nợ.

Cũng theo WB, nếu rủi ro lạm phát gia tăng trở thành hiện thực (khi lạm phát cơ bản tăng tốc và chỉ số giá tiêu dùng vượt quá mục tiêu 4% do Chính phủ đặt ra), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nên sẵn sàng chuyển sang thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế áp lực lạm phát bằng cách tăng lãi suất và thắt chặt cung tiền.

Để tăng năng suất lao động thì cần đầu tư cho hệ thống giáo dục
Để tăng năng suất lao động thì cần đầu tư cho hệ thống giáo dục

Đối với vấn đề giáo dục, báo cáo của WB cho rằng, đổi mới hệ thống giáo dục đại học là chìa khóa để nâng cao năng suất của Việt Nam và giúp hoàn thành mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2035 và quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt tỷ lệ nhập học đại học bình quân tương đương với các nền kinh tế thu nhập trung bình cao, Việt Nam cần tuyển sinh 3,8 triệu sinh viên vào các cơ sở giáo dục đại học, gần gấp đôi so với chỉ tiêu tuyển sinh năm 2019.

Theo khảo sát của WB, có 73% doanh nghiệp Việt Nam được khảo sát cho biết gặp khó khăn trong việc tuyển dụng nhân sự có các kỹ năng quản lý; 54% gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động có kỹ năng cảm xúc - xã hội; 68% gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động có kỹ năng chuyên môn theo vị trí việc làm cụ thể.

Theo WB, đổi mới hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam có thể hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển. Tuy nhiên, chi phí tài chính cho việc học đại học ngày càng lớn và lợi suất kinh tế giảm dần nếu theo học đại học là những lý do khiến cho nhu cầu yếu đi. Ngoài ra, hệ thống giáo dục đại học còn có những bất cập khác như không cung cấp được những kỹ năng mà chủ sử dụng lao động cần, đầu tư từ ngân sách còn thiếu, thể chế quản trị giáo dục đại học còn yếu và manh mún.

Theo khảo sát của WB về doanh nghiệp và kỹ năng, có 73% doanh nghiệp Việt Nam được khảo sát cho biết họ gặp khó khăn trong việc tuyển dụng nhân sự có các kỹ năng lãnh đạo và quản lý; 54% gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động có kỹ năng cảm xúc - xã hội; 68% gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động có kỹ năng chuyên môn kỹ thuật theo vị trí việc làm cụ thể.

WB đưa ra những khuyến nghị nhằm cải thiện khả năng tiếp cận giáo dục đại học, nâng cao chất lượng và sự phù hợp trong giảng dạy, nâng cao hiệu suất sử dụng nguồn lực, trong đó có khuyến nghị về mở rộng áp dụng công nghệ số, nâng cao vai trò của khu vực tư nhân và hài hòa hệ thống văn bản pháp quy.

Bà Carolyn Turk, Giám đốc WB tại Việt Nam, nhấn mạnh: “Để duy trì tăng trưởng kinh tế với tốc độ mong muốn, Việt Nam cần tăng năng suất ở mức 2-3% mỗi năm. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tăng năng suất lao động chỉ có thể đạt được bằng cách đầu tư cho hệ thống giáo dục, là một phần quan trọng của gói các đầu tư và cải cách cần thiết. Lực lượng lao động có năng lực cạnh tranh là yếu tố Việt Nam rất cần trong dài hạn”.

Để đạt tỷ lệ nhập học đại học tương đương các nền kinh tế thu nhập trung bình cao, Việt Nam cần tuyển sinh 3,8 triệu sinh viên vào các cơ sở giáo dục đại học, gần gấp đôi so với chỉ tiêu tuyển sinh năm 2019.

Phương Nam

Kinh tế Ả Rập Xê-út tăng trưởng mạnh trong quý II nhờ giá dầuKinh tế Ả Rập Xê-út tăng trưởng mạnh trong quý II nhờ giá dầu
Kỳ vọng tăng trưởng kinh tế khả quanKỳ vọng tăng trưởng kinh tế khả quan
Cứu vãn kinh tế, Trung Quốc yêu cầu tăng tốc các dự án hạ tầngCứu vãn kinh tế, Trung Quốc yêu cầu tăng tốc các dự án hạ tầng
ADB giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Việt Nam ở mức 6,5%ADB giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Việt Nam ở mức 6,5%

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 116,000 118,000
AVPL/SJC HCM 116,000 118,000
AVPL/SJC ĐN 116,000 118,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 07/06/2025 05:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 114.400
TPHCM - SJC 116.000 118.000
Hà Nội - PNJ 112.000 114.400
Hà Nội - SJC 116.000 118.000
Đà Nẵng - PNJ 112.000 114.400
Đà Nẵng - SJC 116.000 118.000
Miền Tây - PNJ 112.000 114.400
Miền Tây - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 114.400
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 118.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 114.400
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 114.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.300 113.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.190 113.690
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.490 112.990
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.260 112.760
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.000 85.500
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.220 66.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.990 47.490
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.840 104.340
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.070 69.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.620 74.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.030 77.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.330 42.830
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.200 37.700
Cập nhật: 07/06/2025 05:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,010 11,440
Trang sức 99.9 11,000 11,430
NL 99.99 10,760
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,760
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,220 11,500
Miếng SJC Thái Bình 11,600 11,800
Miếng SJC Nghệ An 11,600 11,800
Miếng SJC Hà Nội 11,600 11,800
Cập nhật: 07/06/2025 05:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16377 16645 17221
CAD 18508 18785 19404
CHF 31053 31431 32086
CNY 0 3530 3670
EUR 29113 29382 30413
GBP 34442 34833 35784
HKD 0 3188 3391
JPY 173 178 184
KRW 0 18 19
NZD 0 15386 15979
SGD 19708 19990 20520
THB 714 777 831
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26230
Cập nhật: 07/06/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 07/06/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 07/06/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 07/06/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/06/2025 05:00