Tin tức kinh tế ngày 13/8: Gần 1.800 dự án đầu tư công chậm tiến độ

20:21 | 13/08/2019

1,020 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Gần 1.800 dự án đầu tư công chậm tiến độ năm 2018; Nợ thuế không có khả năng thu hồi lên tới 39.000 tỷ đồng; Xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc đang hồi phục; Ngành công nghiệp và chế biến chế tạo thu hút FDI lớn nhất... là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 13/8.
tin tuc kinh te ngay 138 gan 1800 du an dau tu cong cham tien doGiá xăng dầu hôm nay 13/8 tăng nhẹ
tin tuc kinh te ngay 138 gan 1800 du an dau tu cong cham tien doGiá vàng hôm nay 13/8: Lo ngại gia tăng, giá vàng quay đầu tăng vọt
tin tuc kinh te ngay 138 gan 1800 du an dau tu cong cham tien doĐón đọc Báo Năng lượng Mới số 848, phát hành thứ Ba ngày 13/8/2019

Gần 1.800 dự án đầu tư công chậm tiến độ năm 2018

tin tuc kinh te ngay 138 gan 1800 du an dau tu cong cham tien do
Năm 2018 có 30.521 dự án kết thúc đầu tư đưa vào khai thác sử dụng, chiếm 54% số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ. (Ảnh minh họa)

Năm 2018 cả nước có 56.567 dự án đầu tư công được thực hiện, trong đó có 1.778 dự án chậm tiến độ, 422 dự án thất thoát, lãng phí… là những con số được đưa ra tại báo cáo tổng hợp công tác giám sát đánh giá tổng thể đầu tư năm 2018 mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa gửi Thủ tướng Chính phủ.

Theo báo cáo, năm 2018, tổng số vốn được bố trí theo kế hoạch Nhà nước để thực hiện dự án đầu tư công là 631.695 tỷ đồng, đạt 79,78% so với kế hoạch năm, tuy nhiên chỉ giải ngân được 463.717 tỷ đồng (đạt 73,41% so với kế hoạch).

Đáng chú ý, trong 1.778 dự án chậm tiến độ, trong đó dự án nhóm A là 32 dự án, nhóm B là 382 dự án và nhóm C là 1.364 dự án. Nguyên nhân chậm tiến độ chủ yếu là do công tác giải phóng mặt bằng, vướng thủ tục đầu tư, do bố trí vốn không kịp thời; do năng lực của chủ đầu tư, ban quản lý dự án và các nhà thầu và các nguyên nhân khác.

Đánh giá về những hạn chế, tồn tại về các dự án đầu tư, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, thời gian thực hiện các thủ tục chuẩn bị đầu tư còn dài, một số quy định còn bất cập; công tác giải phóng mặt bằng một số dự án còn chậm, nhiều dự án còn chậm tiến độ, phải điều chỉnh; tình hình thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công còn chậm; việc thực hiện quyết toán các dự án hoàn thành ở một số cơ quan còn thấp.

Nợ thuế không có khả năng thu hồi lên tới 39.000 tỷ đồng

tin tuc kinh te ngay 138 gan 1800 du an dau tu cong cham tien do
Tổng số tiền nợ thuế tính đến 31/7/2019 là 83.158 tỷ đồng. (Ảnh minh họa)

Báo cáo của Tổng cục Thuế cho biết, tổng số tiền nợ thuế tính đến 31/7/2019 là 83.158 tỷ đồng, giảm 5,7% (tương đương gần 5.000 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm 2018; giảm 0,3% so với thời điểm 30/6/2019.

Các khoản nợ thuế, phí là 16.539 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng gần 20% tổng số tiền thuế nợ, giảm 38,8% (tương đương gần 10.500 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm 2018. Các khoản nợ liên quan đến đất là 10.931 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,1% tổng số tiền nợ thuế. Các khoản nợ do phạt vi phạm hành chính và tiền chậm nộp là 16.678 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 20,1% tổng số tiền nợ thuế.

Cùng với đó, số tiền nợ thuế không còn khả năng thu hồi là 39.010 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 46,9% tổng tiền nợ thuế, tăng 11,4% (tương đương 3.992 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm 2018, tăng 0,3% so với thời điểm 30/6/2019.

Trước tình hình nợ thuế không có khả năng thu hồi có chiều hướng tăng, Tổng cục Thuế đã cử đoàn công tác làm việc với các cục thuế để rà soát, yêu cầu các cục thuế có giải pháp đôn đốc thu hồi nợ thuế. Đến nay tổng cục đã rà soát tại 54 cục thuế, chỉ còn 9 cục thuế có số thu thấp chưa rà soát. Sau khi rà soát và kiểm tra công tác thu hồi nợ, Tổng cục Thuế đã yêu cầu các cục thuế phải có giải pháp đồng bộ, quyết liệt, phấn đấu từ nay đến cuối năm 2019 phải giảm số nợ thuế ở mức thấp nhất có thể.

Xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc đang hồi phục

tin tuc kinh te ngay 138 gan 1800 du an dau tu cong cham tien do
Tính đến hết tháng 6/2019, xuất khẩu tôm sang Trung Quốc giảm gần 5%. (Ảnh minh họa)

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) vừa dự báo, xuất khẩu thủy sang Trung Quốc sẽ hồi phục vào nửa cuối năm nay do nhu cầu thủy sản của thị trường này đang tăng.

Việc Trung Quốc siết chặt thương mại biên mậu và kiểm soát chất lượng khiến xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này trong những tháng đầu năm 2019 bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, từ tháng 6/2019 đã tăng trở lại do thị trường Trung Quốc đã bắt kịp yêu cầu và có sự điều chỉnh tốt hơn khi nhu cầu tăng. Dự báo, xuất khẩu sẽ tiếp tục tăng mạnh lên trong nửa cuối năm và đạt mức 1,2 tỷ USD.

Xu hướng sụt giảm từ năm 2018 vẫn tiếp tục khiến xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc trong quý I/2019 giảm đến 5%; song, sang quý II chiều hướng khả quan hơn và chỉ giảm nhẹ 0,3%, đạt 333 triệu USD.

Tính đến hết tháng 6/2019, xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc giảm 2,3% đạt 572 triệu USD; trong đó, xuất khẩu tôm giảm gần 5%, cá tra tăng gần 2%, cá ngừ tăng mạnh 183%. Cá tra đã vượt tôm, chiếm tỷ trọng cao nhất trong xuất khẩu sang thị trường này với 44%, trong khi tôm chiếm 40%.

Ngành công nghiệp và chế biến chế tạo thu hút FDI lớn nhất

tin tuc kinh te ngay 138 gan 1800 du an dau tu cong cham tien do
Ngành công nghiệp, chế biến chế tạo vẫn là nơi thu hút FDI lớn nhất chiếm tới 73,4% tổng vốn đăng ký cấp mới. (Ảnh minh họa)

Theo Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), trong quý II/2019, cả nước có 38.514 doanh nghiệp (DN) đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 484,7 nghìn tỷ đồng, tăng 30,8%. Số DN tạm dừng hoạt động giảm mạnh, với con số 14.096 DN, thấp hơn 44,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm chỉ có 44.996 DN tạm ngừng hoạt động và chủ yếu là các DN bán buôn bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe (chiếm tới 39,1% số DN).

Báo cáo cũng chỉ ra trong 6 tháng đầu năm, vốn đầu tư FDI tăng 9,7%; cao hơn mức 8,5% của cùng kỳ năm ngoái, nhưng chưa đuổi kịp được tốc độ của khu vực ngoài nhà nước. Tính đến cuối tháng 6 có 1.723 dự án cấp phép mới, tăng 26,1% vốn đăng ký, đạt 7.411,8 triệu USD, giảm 37,2% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018.

Ngành công nghiệp và chế biến chế tạo vẫn là nơi thu hút FDI lớn nhất với vốn chiếm tới 73,4% tổng vốn đăng ký cấp mới, là động lực chính của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tiếp theo là dòng vốn đổ vào ngành bất động sản cũng tăng, chiếm 10,8% tổng vốn và 6,5% vốn đăng ký mới.

Xét theo đối tác, trong 6 tháng đầu năm 2019, Trung Quốc tiếp tục là nhà đầu tư lớn nhất với tổng số vốn đăng ký mới đạt 1.676,8 triệu USD. Các vị trí tiếp theo thuộc về Hàn Quốc đạt 1.239,2 triệu USD, Nhật Bản đạt 972 triệu USD.

HOSE công bố bộ nguyên tắc quản trị công ty tiêu chuẩn OECD

tin tuc kinh te ngay 138 gan 1800 du an dau tu cong cham tien do
HOSE công bố bộ nguyên tắc quản trị công ty tiêu chuẩn OECD. (Ảnh: SGGP)

Chiều 13/8, Sở Giao dịch chứng khoán TP HCM (HOSE) lần đầu tiên công bố “Bộ nguyên tắc quản trị công ty theo thông lệ tốt nhất” dành cho các công ty đại chúng được xây dựng với sự hỗ trợ của Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) và Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ (SECO).

Bộ nguyên tắc này đưa ra một loạt khuyến nghị về thông lệ quản trị công ty tốt nhất theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) với trọng tâm dành cho các công ty đại chúng Việt Nam. Đặc biệt, bộ nguyên tắc bao gồm các tiêu chuẩn cao hơn yêu cầu tối thiểu theo quy định pháp luật và khuyến khích các doanh nghiệp hướng tới các thông lệ quốc tế tốt nhất.

Theo ông Trần Văn Dũng, Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, bộ nguyên tắc là nỗ lực mới nhất của các bên để hỗ trợ các doanh nghiệp đại chúng và niêm yết áp dụng các tiêu chuẩn quản trị công ty quốc tế. Điều này giúp nâng cao chất lượng doanh nghiệp niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán. Mục tiêu cao nhất là nâng cao niềm tin của nhà đầu tư, tăng trưởng thị trường vốn, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Lâm Anh (t/h)

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,850 ▲200K
AVPL/SJC HCM 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
AVPL/SJC ĐN 81,650 ▼50K 83,850 ▲150K
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,850 ▲200K
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 ▲100K 84.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,475 ▲10K 7,680 ▲10K
Trang sức 99.9 7,465 ▲10K 7,670 ▲10K
NL 99.99 7,470 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,450 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,540 ▲10K 7,710 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,200 ▲10K 8,390 ▲20K
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▲200K 84,000 ▲200K
SJC 5c 82,000 ▲200K 84,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▲200K 84,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 15:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,001 16,021 16,621
CAD 18,177 18,187 18,887
CHF 27,419 27,439 28,389
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,542 3,712
EUR #26,237 26,447 27,737
GBP 30,905 30,915 32,085
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.25 160.4 169.95
KRW 16.3 16.5 20.3
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,228 2,348
NZD 14,723 14,733 15,313
SEK - 2,253 2,388
SGD 18,116 18,126 18,926
THB 637.47 677.47 705.47
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 15:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 15:45