Thận trọng với tăng trưởng tín dụng!

08:20 | 02/11/2017

842 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Chuyên gia tài chính - ngân hàng, TS Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, cần thận trọng khi đẩy tín dụng vào bất động sản và chứng khoán trong những tháng cuối năm bởi có nhiều rủi ro.  

PV: Ông nhận xét như thế nào về việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đưa vốn lãi suất hợp lý vào nền kinh tế trong thời gian qua?

than trong voi tang truong tin dung
TS Nguyễn Trí Hiếu

TS Nguyễn Trí Hiếu: NHNN rất nỗ lực khuyến khích các ngân hàng thương mại (NHTM) cung cấp vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa qua việc hạ lãi suất. Trong tháng 7 vừa qua, NHNN đã hạ 0,25%/năm lãi suất điều hành, trong đó có lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, lãi suất thanh toán bù trừ trong hệ thống ngân hàng (NH) cho các NH với mong muốn các NH hạ lãi suất cho vay doanh nghiệp. Điều này thật sự có, nhưng nó chỉ xảy ra trong khoảng thời gian rất ngắn sau khi NHNN hạ lãi suất điều hành. Việc NHNN hạ lãi suất điều hành là một động thái tích cực.

PV: Tình hình lãi suất hiện nay như thế nào, thưa ông?

TS Nguyễn Trí Hiếu: Lãi suất huy động trong lúc này ổn định, nhưng trong mấy ngày vừa qua có một số NHTM hạng trung và nhỏ lại tiếp tục tăng lãi suất.

Hiện nay, lãi suất cho vay trong những lĩnh vực ưu đãi của Chính phủ gồm: nông nghiệp - nông thôn; công nghiệp hỗ trợ; kinh doanh hàng xuất khẩu; doanh nghiệp nhỏ và vừa; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao khoảng 6-7%; lãi suất cho các doanh nghiệp khác khoảng 7-9% đối với cho vay ngắn hạn, các doanh nghiệp bất động sản có thể chịu lãi suất cao hơn.

PV: Ông dự báo như thế nào về tình hình lãi suất từ nay đến cuối năm?

TS. Nguyễn Trí Hiếu: Như chúng ta đã biết, từ đầu năm đến nay, tăng trưởng tín dụng khoảng 11%, trong khi đó tăng trưởng huy động vốn chỉ hơn 10%, tức tăng trưởng cho vay nhiều hơn huy động. Từ nay đến cuối năm, để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, các NHTM phải đẩy ra một lượng tín dụng nhiều hơn nữa vào nền kinh tế. Để có vốn cho vay, các NHTM có thể sẽ nâng lãi suất huy động lên một chút nhằm tăng khả năng hấp thụ vốn huy động. Nếu NHTM nâng lãi suất huy động lên, khó mà lãi suất cho vay thấp được. Tôi nghĩ từ nay đến cuối năm, Chính phủ và NHNN sẽ cần rất nhiều nỗ lực để đẩy tín dụng cho các doanh nghiệp với lãi suất duy trì ở mức hiện tại và tỷ giá ổn định.

Chúng ta đang có khoảng 600.000 tỉ đồng nợ xấu. Đẩy mạnh tín dụng cho nền kinh tế chưa hẳn đã là giải pháp hay.

Chính phủ vì muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu 6,7% năm 2017, nên mới đây đã thông qua NHNN muốn các NHTM đẩy tăng trưởng tín dụng lên 21-22%. 9 tháng năm 2017, các NHTM tăng trưởng tín dụng 11%. Từ nay đến cuối năm, các NHTM có thể đẩy ra thêm ít nhất 10% nữa. Tổng dư nợ trong nền kinh tế hiện tại là 6 triệu tỉ đồng, 10% của 6 triệu tỉ đồng là 600.000 tỉ đồng. Như vậy trong 3 tháng cuối năm, mỗi tháng trung bình hệ thống NH phải đẩy ra cho nền kinh tế một lượng tín dụng khoảng 200.000 tỉ đồng. Đây là một lượng tín dụng rất lớn, bằng tổng dư nợ của một NHTM hạng trung ở Việt Nam. Đẩy một lượng tín dụng lớn ra cho nền kinh tế như thế có thể sẽ gặp rất nhiều rủi ro.

than trong voi tang truong tin dung
Nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong những tháng cuối năm thường tăng cao

PV: Rủi ro mà ông muốn nói đến cụ thể là gì?

TS Nguyễn Trí Hiếu: Rủi ro thứ nhất là tăng lạm phát. Thứ hai, các NHTM khi muốn tăng trưởng tín dụng, có thể nhắm vào bất động sản, vì đây là lĩnh vực hấp thụ vốn rất lớn và rất nhanh. Một dự án bất động sản có thể hút vốn hàng trăm tỉ đồng, giải ngân trong vòng vài tháng. Bên cạnh đó là chứng khoán. Chứng khoán trong năm nay tăng trưởng rất mạnh, đang là nơi hút vốn của NHTM.

Theo TS Bùi Quang Tín, Giám đốc Trường Doanh nhân Bizlight, thông thường trong 3 tháng cuối năm, hệ thống NH có thể tăng trưởng tín dụng thêm khoảng 6%. Như vậy, toàn hệ thống có thể chỉ đạt mức tăng trưởng tín dụng 17-18% vào cuối năm.

Để đẩy nhanh vốn cho vay, các NHTM có thể sẽ đẩy tín dụng vào chứng khoán và bất động sản, hai lĩnh vực đang rất nóng hiện nay. Đây cũng là rủi ro cho nền kinh tế vì bất động sản và chứng khoán có thể hình thành bong bóng trong tương lai nếu đẩy quá nhiều tín dụng vào, tác động đẩy giá lên, đến một lúc nào đó sẽ hình thành bong bóng, hình thành nợ xấu cho nền kinh tế. Chúng ta đang có khoảng 600.000 tỉ đồng nợ xấu. Đẩy mạnh tín dụng cho nền kinh tế chưa hẳn đã là giải pháp hay.

PV: Vậy ông có khuyến nghị nào cho các ngân hàng?

TS Nguyễn Trí Hiếu: Với tăng trưởng kinh tế 6,41% trong 9 tháng đầu năm và chúng ta không còn cách xa lắm mục tiêu 6,7% của năm 2017, tôi nghĩ rằng, các NHTM nên cẩn trọng trong việc đẩy tín dụng quá lớn vào nền kinh tế. Đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 21-22% theo tôi là không cần thiết. Đẩy tín dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần thiết hơn là vào bất động sản và chứng khoán. Tăng trưởng tín dụng là tốt nhưng nó phải đi kèm với một hoạt động tín dụng lành mạnh. Tức là những người vay vốn ngân hàng phải có khả năng trả nợ.

PV: Xin cảm ơn ông!

Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)… đã khuyến cáo, Việt Nam nên tập trung vào chất lượng tăng trưởng thay vì số lượng. Tăng trưởng tín dụng và GDP phải đi kèm với việc cải thiện môi trường kinh doanh một cách bền vững thì mới có giá trị lâu dài.

Mai Phương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,820 ▲50K 11,340
Trang sức 99.9 10,810 ▲50K 11,330
NL 99.99 10,820 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 ▲50K 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 19:00