Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

06:40 | 28/05/2023

9,664 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết số 36-NQ/TW) khẳng định vị trí, tầm quan trọng trong phát triển kinh tế biển, đồng thời xác định nhiệm vụ đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển. Để cụ thể hóa mục tiêu đó, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp mang tính đổi mới, sáng tạo, đột phá trong thời gian tới.

Thực trạng phát triển kinh tế biển

Nước ta có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển kinh tế biển, đặc biệt là đường bờ biển dài khoảng 3.260km; khoảng hơn 3.000 đảo và quần đảo lớn nhỏ, trong đó, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược rất quan trọng; các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia rộng hơn 1 triệu km2 (trải dài trên 28 tỉnh, thành phố ven biển). Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đề ra mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể nhằm đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, có sự phát triển bền vững, thịnh vượng, bảo đảm an ninh, an toàn nền kinh tế biển; trong đó, xác định đến năm 2030, các ngành kinh tế thuần biển có đóng góp vào GDP cả nước đạt khoảng 10%; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước; các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các tiêu chuẩn quốc tế; tăng cường kiểm soát khai thác tài nguyên biển gắn với bảo đảm khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển,...

Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Khai thác dầu khí ở mỏ Bạch Hổ (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu)_Nguồn: PVN

Kết quả đạt được

Ngay sau khi Nghị quyết số 36-NQ/TW được ban hành, Trung ương thực hiện triển khai Hội nghị toàn quốc quán triệt các nội dung cơ bản của Nghị quyết đến các bộ, ngành, địa phương trên toàn quốc theo hình thức trực tuyến; Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan thực hiện tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong nhân dân về vị trí, vai trò của nguồn lực biển trong phát triển kinh tế cũng như nội dung, mục tiêu cơ bản của Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam(1). Bên cạnh đó, những chuyên đề tuyên truyền, chuỗi sự kiện, chiến dịch ra quân, ấn phẩm, chương trình truyền thông về kinh tế biển, chiến lược bảo vệ môi trường biển, giảm thiểu rác thải nhựa đại dương,... diễn ra ngày càng sôi nổi, đa dạng, tác động mạnh mẽ và tích cực đến nhận thức của người dân về hoạt động phát triển kinh tế biển bền vững gắn với bảo vệ môi trường. Ngoài ra, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành nhiều văn bản quan trọng để tổ chức và triển khai thực hiện Nghị quyết(2); nhiều tỉnh, thành phố có biển đã thành lập ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW. Đến nay, kết quả thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW được thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, sau khoảng 4 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, các bộ, ngành và địa phương nỗ lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và bước đầu đạt được một số kết quả đáng ghi nhận; trong đó, hệ thống nuôi trồng và khai thác hải sản, năng lượng tái tạo, các ngành kinh tế biển mới có bước phát triển; các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị sinh thái ven biển dần được hình thành; các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên được đầu tư, khai thác; hoạt động bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển được chú trọng; các nhiệm vụ ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai, quốc phòng - an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển và đại dương,... được bảo đảm.

Thứ hai, phát triển kinh tế biển dựa trên những chỉ tiêu về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ theo tiêu chuẩn quốc tếđược coi trọng. Năm 2021, tại Diễn đàn Bộ trưởng trong khuôn khổ Đại hội biển Đông Á (East Asian Seas Congress - EASC) lần thứ 7 với chủ đề “Hướng tới Chương trình phát triển xanh: Các hệ sinh thái đại dương khỏe mạnh và thịnh vượng chung”, Việt Nam cam kết xây dựng một nền quản trị đại dương có trách nhiệm dựa trên các nguyên tắc phát triển bền vững và chiến lược xây dựng nền kinh tế xanh(3). Đồng thời, thực hiện nhân rộng mô hình quản trị tổng hợp vùng bờ tại các địa phương có biển; công bố báo cáo quốc gia về hiện trạng môi trường biển và vùng bờ, hải đảo quốc gia giai đoạn 2016 - 2020; thành lập cơ chế điều phối đa quốc gia gắn với chính quyền địa phương có biển. Mặt khác, tổ chức xây dựng hệ thống chỉ tiêu về kinh tế biển để giải quyết những bất cập hiện tại trong công tác xây dựng mục tiêu, thống kê, đánh giá chỉ tiêu đạt được; phần lớn các ngành kinh tế biển được thống kê chung, bao gồm cả phần biển và đất liền; phương pháp xác định, phân biệt ngành kinh tế thuần biển và các ngành kinh tế liên quan đến biển dần được hoàn thiện.

Thứ ba, tăng cườngứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ và hợp tác quốc tế trong phát triển. Cụ thể, Chính phủ ban hành Quyết định số 896/QĐ-TTg, ngày 26-6-2020, “Về phê duyệt Chương trình tăng cường năng lực và hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ quản lý tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030” nhằm tổ chức, nghiên cứu, tiếp cận, tận dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến trong xây dựng nền kinh tế biển. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học - công nghệ về biển, đảo được đẩy mạnh với nhiều nước, như Đức, Hàn Quốc, Thụy Điển, Ca-na-đa,... và nhiều tổ chức quốc tế, như Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Yeosu Foundation (Hàn Quốc),... Việt Nam cũng ký kết những biên bản ghi nhớ với các tổ chức quốc tế có uy tín ở khu vực Đông Bắc Á về việc thực hiện các dự án tăng cường thực hiện Chiến lược phát triển bền vững biển Đông Á (giai đoạn 2); phối hợp xây dựng và triển khai dự án “Thực hiện Kế hoạch hành động đảo ngược xu thế suy thoái môi trường Biển Đông và vịnh Thái Lan” cùng những dự án hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển. Trong lĩnh vực hàng hải, tập trung xây dựng và nhập khẩu các phần mềm mới phục vụ công tác thiết kế đóng mới, hoán cải tàu biển và công trình dầu khí biển, thực hiện đo dung tích, đánh giá trạng thái phương tiện đang khai thác, ứng phó với sự cố hàng hải trên biển.

Thứ tư, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Các địa phương tích cực triển khai công tác đánh giá tiềm năng, giá trị các tài nguyên quan trọng, đồng thời ngăn ngừa, kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển. Đến nay, cả nước có 12 khu bảo tồn biển đã được thành lập; các công tác, như dự báo, cảnh báo thiên tai, động đất, sóng thần, quan trắc, giám sát môi trường biển, biến đổi khí hậu, nước biển dâng được tiến hành thường xuyên, kịp thời; xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu dạng số về tài nguyên, môi trường biển và lưu trữ tại trung tâm thông tin, dữ liệu biển và hải đảo quốc gia,... Bên cạnh đó, thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao; đồng thời, triển khai rà soát các đề án phát triển nguồn nhân lực, trong đó, tập trung phát triển nguồn nhân lực biển thông qua đào tạo (đại học và trên đại học), dạy nghề, xây dựng cơ sở đào tạo và các chương trình đào tạo nhân lực cho hoạt động quản lý, khai thác biển(4).

Thứ năm, đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển bền vững kinh tế biển. Cụ thể, Chỉ thị số 31/CT-TTg, ngày 24-11-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Về đổi mới và tăng cường tổ chức thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030” yêu cầu các bộ, ngành, địa phương có biển cần nỗ lực cao, đổi mới sáng tạo, quyết tâm lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm; xử lý dứt điểm, không để kéo dài các nhiệm vụ được giao nhằm tạo động lực cho phát triển bền vững kinh tế biển; triển khai đồng bộ các giải pháp về phát triển bền vững kinh tế biển; phối hợp với Tổ chức Quốc tế về bảo tồn thiên nhiên (WWF) triển khai các hoạt động giảm thiểu rác thải nhựa đại dương tại 10 tỉnh, thành phố; các bộ, ngành và địa phương chủ động tổ chức tuần lễ biển và hải đảo, ngày đại dương thế giới,...

Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Bảo vệ rạn san hô ở Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang (ảnh: Trương Minh Điền)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Bên cạnh đó, thực hiện rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về vùng biển theo hướng phát triển bền vững. Chính phủ cùng các bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản, chỉ thị, kế hoạch nhằm thực hiện sáng kiến và cam kết của Việt Nam với quốc tế về giải quyết rác thải nhựa, trọng tâm là rác thải nhựa đại dương; đồng thời tuyên truyền, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, ứng xử với các sản phẩm nhựa, thực hiện các biện pháp nhằm giảm thiểu 75% rác thải nhựa trên biển và đại dương. Ngoài ra,nhiều quyết định, hướng dẫn, kế hoạch của Nhà nước được ban hành nhằm tạo khuôn khổ pháp lý trong thiết lập, xây dựng công tác lập quy hoạch không gian biển quốc gia. Với phương châm chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, Nghị quyết số 36-NQ/TW đã kế thừa, phát triển những nội dung liên quan từ thực tiễn đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển thời gian qua và đề ra chủ trương, giải pháp triển khai phù hợp với hoàn cảnh đất nước cũng như xu thế thời đại.

Một số khó khăn, hạn chế

Thời gian qua, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW đạt được những kết quả nhất định, góp phần phát triển bền vững kinh tế biển; tuy nhiên, vẫn còn không ít hạn chế, khó khăn cần khắc phục, cụ thể:

Một là, cơ chế, chính sách, pháp luật chưa bắt kịp, đón đầu những yêu cầu trong bối cảnh mới.

Do cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, thống nhất, khiến việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW gặp nhiều khó khăn (đặc biệt là nhiệm vụ lập quy hoạch tổng thể, quy hoạch không gian biển quốc gia). Ngoài ra, việc thực hiện các quy định pháp luật về lấn biển, thế chấp, cho thuê, góp vốn, chuyển nhượng quyền sử dụng khu vực biển,... của các tổ chức, cá nhân được giao để sản xuất, tiến hành nuôi trồng thủy sản hoặc hỗ trợ, bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi khu vực biển vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, công cộng,... gặp nhiều vướng mắc, dẫn đến chậm tiến độ (nhất là ở các khâu nghiên cứu, trình Chính phủ phê duyệt, ban hành). Nghị định số 11/2021/NĐ-CP, ngày 10-2-2021, của Chính phủ, về “Quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển” hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về nội dung, thành phần hồ sơ, thủ tục hành chính đối với việc chấp thuận bằng văn bản cho các hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển của các tổ chức, cá nhân,... dẫn đến hoạt động xử lý các đề xuất của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, trở ngại; chưa xây dựng được hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển, hải đảo và bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia mạnh về biển.

Hai là, nguồn kinh phí thực hiện các chương trình, dự án chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Với tiến độ thực hiện và khả năng bố trí kinh phí như hiện nay, đến hết năm 2025 rất khó để hoàn thành các dự án được duyệt; các dự án trọng điểm trong Quyết định số 28/QĐ-TTg, ngày 7-1-2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030” gặp nhiều khó khăn, điểm nghẽn trong triển khai thực hiện, nguy cơ chậm tiến độ ngày càng lớn. Mặt khác, các hoạt động điều tra, quy hoạch cơ bản tài nguyên môi trường biển, hải đảo chưa đồng đều, mới ở giai đoạn đầu nên chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu đầy đủ, toàn diện, cập nhật. Nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp chưa bảo đảm theo phân kỳ thực hiện, dẫn đến một số dự án bị kéo dài, làm phát sinh các chi phí có liên quan (như tổ chức khảo sát, di chuyển người, trang thiết bị, phát sinh chi phí tàu di chuyển ra vào cảng do tăng số chuyến khảo sát,...), ảnh hưởng xấu tới chất lượng và giá trị sử dụng kết quả của dự án.

Ba là, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

Hiện nay,nguồn nhân lực biển đang đứng trước những khó khăn, thách thức trước những yêu cầu trong tình hình mới; công tác phát triển nguồn nhân lực biển chất lượng cao chưa thực sự tạo ra bước đột phá; hệ thống cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển cũng như các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tai biển, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn,... ở ven biển có quy mô nhỏ, trang bị thô sơ, thiếu nhân lực, năng lực hạn chế. Việc bố trí nguồn lực tài chính để triển khai, thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp và khâu đột phá gặp nhiều khó khăn; thiếu cán bộ kỹ thuật có năng lực, kinh nghiệm thực tế trong thực hiện các dự án; hiện tượng “chảy máu nguồn nhân lực” thường xuyên xảy ra, chế độ, chính sách cho đội ngũ thực hiện các nhiệm vụ, dự án nghiên cứu, điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển còn nhiều bất cập, không phù hợp, đời sống người lao động bấp bênh,...

Bốn là, công tác quản lý nhà nước ở vùng biển gặp nhiều khó khăn, hiệu lực, hiệu quả chưa cao.

Vùng biển là không gian có tính đặc thù, liên thông, liên vùng, liên ngành và tính quốc tế cao. Tuy nhiên, hiện nay, chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường biển, đảo được lồng ghép, tập trung trong một phòng quản lý chuyên ngành thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh. Do đó, công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường biển gặp nhiều khó khăn, hiệu lực và hiệu quả quản lý chưa cao; cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và giữa các địa phương có biển trong từng vùng kinh tế biển chưa rõ ràng, mang tính bền vững.

Một số giải pháp phát triển bền vững kinh tế biển

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tạo đồng thuận trong toàn xã hội về phát triển kinh tế biển bền vững; đồng thời, nhanh chóng triển khai Quyết định số 729/QĐ-TTg, ngày 16-6-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc phê duyệt Chương trình truyền thông về biển và đại dương đến năm 2030” nhằm đổi mới tư duy về tầm quan trọng của việc thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW đối với phát triển kinh tế biển xanh. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin giúp các bên liên quan (các cơ quan nhà nước, khu vực tư nhân, cộng đồng và các tổ chức thanh niên) ở cấp quốc gia, tỉnh và khu vực về cơ hội phát triển kinh tế biển bền vững; ngăn ngừa xung đột giữa các ngành, lĩnh vực và dung hòa, bảo tồn, phát huy vốn biển tự nhiên gắn với phát triển kinh tế; xác định rõ vai trò chiến lược quy hoạch không gian biển trong thu hút các dự án đầu tư.

Thứ hai, tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; các bộ, ngành có liên quan chủ trì, phối hợp với địa phương thực hiện kiểm tra, đánh giá tổng thể và đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về xây dựng kinh tế biển, đảo, góp phần thực hiện đầy đủ và toàn diện các nội dung được đề ra trong Nghị quyết số 36-NQ/TW. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật, bảo đảm tạo hành lang pháp lý về đổi mới, phát triển mô hình kinh tế biển xanh, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức; đẩy nhanh việc xác lập và trình duyệt các quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành và địa phương có biển.

Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Bán đảo Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Thứ ba, bảo đảm nguồn lực thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 36-NQ/TW, xác định lại các chiến lược sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, đồng thời thu hút các nguồn vốn khác trong nước và quốc tế; ưu tiên và kịp thời bố trí nguồn lực trọng điểm để đẩy nhanh tiến độ triển khai nhằm phát huy hiệu quả các nhiệm vụ, chương trình, dự án được phê duyệt; nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong thực hiện các nhiệm vụ phát triển bền vững kinh tế biển. Chú trọng cân đối nguồn kinh phí chi thường xuyên của ngân sách Trung ương để thực hiện các nội dung, nhiệm vụ của Nghị quyết trong dự toán ngân sách hằng năm theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Mặt khác, ủy ban nhân dân các tỉnh trình hội đồng nhân dân kế hoạch bố trí ngân sách địa phương để thực hiện các hoạt động, nhiệm vụ được giao theo phân cấp ngân sách hiện hành.

Thứ tư, tăng cường vai trò điều phối trong tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 36-NQ/TW trên quy mô toàn quốc. Tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, dự án đã được xác định tại Nghị quyết số 36-NQ/TW và Nghị quyết số 26/NQ-CP, ngày 5-3-2020, của Chính phủ về “Ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, cũng như các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP do các bộ, ngành, địa phương ban hành. Mặt khác, kiện toàn các đơn vị ở Trung ương và các địa phương có biển có chức năng quản lý nhà nước tổng hợp, thống nhất về tài nguyên biển gắn với các hoạt động sản xuất kinh tế (bảo đảm theo hướng tinh gọn, hiệu quả, có tính đến thực tế mang tính đặc thù trong lĩnh vực quản lý tài nguyên, môi trường biển, đảo); chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực biển, nhất là nhân lực chất lượng cao, cùng với khoa học - công nghệ làm khâu đột phá. Tổ chức Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW./.

------------------------------

(1) Cơ quan tuyên giáo các cấp tập trung tuyên truyền những nội dung trong Hướng dẫn số 01-HD/BTGTW, ngày 8-2-2021, của Ban Tuyên giáo Trung ương, “Về công tác tuyên truyền biển và hải đảo năm 2021”, tập trung tuyên truyền 5 chủ trương lớn, 3 khâu đột phá được Hội nghị Trung ương 8 khóa XII xác định trong Nghị quyết số 36-NQ/TW

(2) Nghị quyết số 26/NQ-CP, ngày 5-3-2020, của Chính phủ, ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (trong đó, xác định rõ mục đích, yêu cầu, các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cần thực hiện đến năm 2025 và năm 2030, kèm theo danh mục 51 đề án, dự án, nhiệm vụ giao các bộ, ngành, địa phương có biển cần thực hiện trong từng giai đoạn); Quyết định số 729/QĐ-TTg, ngày 16-6-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Về Chương trình truyền thông về biển và đại dương đến năm 2030”; Quyết định số 203/QĐ-TTg, ngày 6-2-2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”,...

(3) Trường Giang: “Tuyên bố chung cấp Bộ trưởng về phát triển bền vững biển Đông Á”, Báo Điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ngày 2-12-2021, https://baotainguyenmoitruong.vn/tuyen-bo-chung-cap-bo-truong-ve-phat-trien-ben-vung-bien-dong-a-334392.html

(4) Hiện nay, tại 28 địa phương ven biển trên cả nước, mạng lưới các trường cao đẳng nghề, trung cấp nghề và trung tâm dạy nghề đang được rà soát và hoàn thiện; tập trung phát triển có 40 trường cao đẳng nghề chất lượng cao, 20 trường cao đẳng nghề, 75 trường trung cấp nghề và 150 trung tâm dạy nghề đào tạo các nghề trong lĩnh vực thủy sản,...

Theo Tạp chí Cộng sản

Nghề nuôi biển Việt Nam có thể thu đến 15 tỷ USD mỗi nămNghề nuôi biển Việt Nam có thể thu đến 15 tỷ USD mỗi năm
Cần làm gì để Việt Nam giàu và mạnh từ biển?Cần làm gì để Việt Nam giàu và mạnh từ biển?
Quy hoạch không gian biển: Cơ hội phát triển điện gió ngoài khơiQuy hoạch không gian biển: Cơ hội phát triển điện gió ngoài khơi
Vị trí chiến lược của kinh tế biểnVị trí chiến lược của kinh tế biển

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 74,400 75,600
Nguyên liệu 999 - HN 74,300 75,500
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 19/04/2024 07:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 82.100 84.100
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 82.100 84.100
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 82.100 84.100
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.100 84.100
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 19/04/2024 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,435 7,650
Trang sức 99.9 7,425 7,640
NL 99.99 7,430
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,410
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,500 7,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,500 7,680
Miếng SJC Thái Bình 8,210 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,210 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,210 8,400
Cập nhật: 19/04/2024 07:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,100 84,100
SJC 5c 82,100 84,120
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,100 84,130
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,700 76,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,700 76,700
Nữ Trang 99.99% 74,600 75,900
Nữ Trang 99% 73,149 75,149
Nữ Trang 68% 49,267 51,767
Nữ Trang 41.7% 29,303 31,803
Cập nhật: 19/04/2024 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,802.74 15,962.37 16,474.59
CAD 17,830.93 18,011.04 18,589.00
CHF 27,037.08 27,310.18 28,186.55
CNY 3,419.83 3,454.37 3,565.76
DKK - 3,534.07 3,669.44
EUR 26,168.83 26,433.16 27,603.92
GBP 30,667.37 30,977.14 31,971.18
HKD 3,144.63 3,176.39 3,278.32
INR - 301.14 313.19
JPY 158.53 160.13 167.79
KRW 15.77 17.53 19.12
KWD - 81,790.33 85,060.87
MYR - 5,219.21 5,333.08
NOK - 2,258.10 2,353.99
RUB - 254.56 281.80
SAR - 6,718.10 6,986.74
SEK - 2,263.43 2,359.55
SGD 18,067.70 18,250.20 18,835.84
THB 606.11 673.46 699.26
USD 25,100.00 25,130.00 25,440.00
Cập nhật: 19/04/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,007 16,027 16,627
CAD 18,151 18,161 18,861
CHF 27,341 27,361 28,311
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,537 3,707
EUR #26,200 26,410 27,700
GBP 31,055 31,065 32,235
HKD 3,117 3,127 3,322
JPY 160.26 160.41 169.96
KRW 16.25 16.45 20.25
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,219 2,339
NZD 14,743 14,753 15,333
SEK - 2,242 2,377
SGD 18,105 18,115 18,915
THB 637.53 677.53 705.53
USD #25,145 25,145 25,440
Cập nhật: 19/04/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,100.00 25,120.00 25,440.00
EUR 26,325.00 26,431.00 27,607.00
GBP 30,757.00 30,943.00 31,897.00
HKD 3,164.00 3,177.00 3,280.00
CHF 27,183.00 27,292.00 28,129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15,911.00 15,975.00 16,463.00
SGD 18,186.00 18,259.00 18,792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17,956.00 18,028.00 18,551.00
NZD 14,666.00 15,158.00
KRW 17.43 19.02
Cập nhật: 19/04/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25225 25275 25442
AUD 16138 16188 16591
CAD 18211 18261 18666
CHF 27736 27786 28199
CNY 0 3479.7 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26808 26858 27368
GBP 31508 31558 32018
HKD 0 3115 0
JPY 162.51 163.01 167.54
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0372 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14819 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18515 18515 18872
THB 0 651.3 0
TWD 0 777 0
XAU 8220000 8220000 8390000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 07:00