Phải thiết kế những gói chính sách mang tính chất “may đo”, không “may sẵn”
Theo đánh giá của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), đầu tư của thế giới năm 2020 có thể suy giảm tới 40%. Các nền kinh tế thế giới giảm sâu, thậm chí là âm. Trong khi ở Việt Nam, tính đến ngày 20/8/2020, tổng vốn FDI đạt gần 20 tỷ USD, giảm 13% so với cùng kỳ. Đây là mức giảm thấp hơn nhiều so với thế giới và các nước trong khu vực. Trong đó, riêng vốn thực hiện đạt 11,3 tỷ USD, chỉ giảm 5,1% so với cùng kỳ.
Đây là những tín hiệu tích cực, thể hiện sự tin tưởng của nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam. Kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực ĐTNN cũng chỉ giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2019. Xuất khẩu đạt 113,3 tỷ USD, giảm 4,5%; nhập khẩu đạt 90,7 tỷ USD, giảm 5,3%.
![]() |
Thu hút doanh nghiệp FDI nhưng cần lựa chọn nhà đầu tư có chất lượng |
Tuy nhiên, dù số liệu thống kê mới nhất trong tháng 7 và tháng 8 đã cho thấy tín hiệu khả quan của dòng vốn FDI vào Việt Nam nhưng vẫn còn sớm khi cho rằng đây là dấu hiệu của những làn sóng lớn FDI dịch chuyển vào Việt Nam.
Bình luận về điều này, tại tọa đàm “Thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài: Hành động và giải pháp đột phá do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức mới đây, ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cho rằng, làn sóng dịch chuyển FDI trên thế giới, có thể nói không phải bây giờ mới xuất hiện vì trước đó đã có những quốc gia chủ trương khuyến khích doanh nghiệp chuyển vốn về nội địa để giải quyết vấn đề việc làm. Còn nếu chúng ta nhận định đây là một làn sóng, phải có sự so sánh.
Theo các số liệu thống kê, không phải đến khi có dịch bệnh, ĐTNN thế giới mới giảm, mà trong 3 năm gần đây giảm liên tục. Giảm liên tục ở đây, theo ông Toàn là sự thay đổi tư duy về ĐTNN. Trước đây, ĐTNN ở Hoa Kỳ giảm khoảng 300 tỷ USD/năm, bây giờ giảm đi rất nhiều, dự kiến trong năm nay tiếp tục giảm. Chúng ta phải đặt vào bối cảnh so sánh như thế để thấy dòng vốn dịch chuyển là làn sóng. Dòng vốn dịch chuyển so với tổng vốn ĐTNN cao hơn trước đây rất nhiều, trước đây gần như dòng vốn dịch chuyển rất ít.
“Vấn đề là làn sóng đó có đến Việt Nam hay không? Việt Nam tận dụng làn sóng đó như thế nào? Tôi nghĩ làn sóng FDI mới là có nhưng có rất nhiều cản trở để làn sóng này có thể đến với chúng ta” – Ông Toàn nói.
Một trong những rào cản của dòng FDI đến Việt Nam được đánh giá chính là sự cạnh tranh quyết liệt của các quốc gia khác. Phân tích về điều này, ông Toàn chỉ rõ, cần nhìn nhận ở nhiều góc độ.
Thứ nhất, ở đây có hai vấn đề, một là FDI mới, hai là FDI dịch chuyển, khi doanh nghiệp tham gia các FDI này, lợi ích trước mắt trung hạn và dài hạn, nếu chúng ta thỏa mãn được những điều kiện đó sẽ thu hút các doanh nghiệp. Khi nguồn vốn FDI của thế giới đang giảm nhưng lại có làn sóng dịch chuyển, thì các nước có doanh nghiệp ý định dịch chuyển vốn sẽ tìm biện pháp níu giữ. Cụ thể, Trung Quốc vừa rồi có ban hành Luật Đầu tư mới với nhiều ưu đãi hơn luật cũ.
Thứ 2, khi dòng vốn dịch chuyển ra khỏi một số nước thì quay về với bản địa, đây là xu hướng tất yếu. Thứ 3, số còn lại ra nước ngoài, tạo ra sự cạnh tranh trong các nước thu hút về. Tất cả những yếu tố nói trên làm cho cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài và thu hút dòng vốn dịch chuyển hết sức quyết liệt.
Phân tích cụ thể hơn, ông Toàn cho rằng, có 3 dòng vốn dịch chuyển. Dòng vốn dịch chuyển thứ nhất là dịch chuyển đơn hàng. Hiện nay, Việt Nam cũng có các doanh nghiệp sẵn sàng dịch chuyển các đơn hàng, nhưng không có nhiều. Đơn hàng rất nhanh, nghĩa là chúng ta đáp ứng 80-90%, chỉ cần cố gắng thêm về mặt năng lực kỹ thuật, quản lý thì chúng ta có thể tiếp cận được các đơn hàng dịch chuyển.
Thứ 2 là luồng vốn đầu tư ra nước ngoài. Đây cũng là một xu hướng dịch chuyển. Thứ 3 là dịch chuyển trực tiếp, một bộ phận hoặc toàn bộ một nhà máy từ nước A sang nước B.
“Chúng ta nhìn nhận được 3 luồng vốn đó và chúng ta phải cố gắng chia từng phân khúc để có thể tiếp thu được luồng vốn này”- lãnh đạo Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cho hay.
Vậy cách gì để có thể hấp dẫn được các nhà đầu tư và đón được những luồng vốn này? Theo TS Nguyễn Đình Cung, chúng ta phải nhìn một cách rất thực tế, cho đến nay ĐTNN vào Việt Nam đến từ “các thiên đường thuế” rất nhiều. Phần lớn đầu tư đến từ các nước châu Á: Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan và gần đây là Trung Quốc. Không có hoặc rất ít đầu tư trực tiếp từ Hoa Kỳ và châu Âu. Xu hướng này thực tế chưa có cải thiện. Trong khi đó, chúng ta rất kỳ vọng đầu tư từ Hoa Kỳ và từ châu Âu với kỳ vọng những đầu tư này là đầu tư chất lượng cao. Những đầu tư này sử dụng công nghệ cao hơn, không sử dụng chi phí lao động thấp, loại đầu tư này rất phù hợp khi Việt Nam đang muốn cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
“ Tôi cho rằng các nhà đầu tư muốn chính sách, luật pháp của chúng ta ổn định. Trong văn bản phải cụ thể, khi thực thi phải dự đoán được. Không có “tiền gầm bàn”, không có chi phí không chính thức. Điều này đối với nhà đầu tư Hoa Kỳ và châu Âu là cực kỳ quan trọng bởi vì họ là những người luôn luôn phải tuân thủ luật pháp, nếu họ không tuân thủ, rủi ro pháp lý xảy ra với họ là rất lớn. Nếu như họ vấp phải rủi ro pháp lý này, họ sẽ tránh. Đây là điều đầu tiên tôi cho rằng chúng ta phải khắc phục trước mắt” – ông Cung cho hay.
Đối với cách tiếp cận chính sách, mặt bằng chung là như vậy, nhưng đối với từng nhà đầu tư phải khác nhau. Vì thế, theo ông Cung, phải thiết kế những gói chính sách mang tính chất “may đo”, không “may sẵn”, lúc đó chúng ta mới đáp ứng các nhu cầu của các nhà đầu tư, từ đó chọn được nhà đầu tư có chất lượng.
M.L
-
[E-Magazine] Giải pháp nào để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP trong các quý tiếp theo?
-
Giá dầu thế giới có thể giảm tới mức nào?
-
Tin tức kinh tế ngày 19/4: Việt Nam cần hơn 266 tỷ USD đầu tư vào ngành điện
-
Đột phá hạ tầng - Thúc đẩy phát triển toàn diện
-
Bà Rịa - Vũng Tàu: Đồng loạt bứt phá hạ tầng, tạo cú hích cho phát triển vùng