Ông Phạm Nhật Vượng bắt đầu “gặt” hàng nghìn tỷ đồng từ điện thoại Vsmart và xe VinFast

06:28 | 01/08/2019

1,041 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Mảng sản xuất (trong đó có sản xuất điện thoại VinSmart và ô tô, xe máy VinFast) đã bắt đầu đem lại doanh thu 2.445 tỷ đồng cho doanh nghiệp của ông Phạm Nhật Vượng.

Kết thúc phiên giao dịch cuối tháng 7/2019, các sàn đều đạt được trạng thái tăng sau khi trải qua giằng co khá căng thẳng trước đó. Cụ thể, VN-Index kết phiên tăng 5,64 điểm tương ứng 0,57% lên 991,66 điểm. HNX-Index dừng chân ngay tại mức tham chiếu 104,43 điểm.

Mặc dù vậy, độ rộng thị trường vẫn nghiêng nhẹ về phía các mã giảm với 337 mã giảm giá, 26 mã giảm sàn so với 325 mã tăng và 43 mã tăng trần. Qua đó cho thấy, chỉ số tăng chủ yếu dựa vào “sức kéo” của các mã vốn hoá lớn chứ không phải nằm ở sự đồng thuận của thị trường.

Ông Phạm Nhật Vượng bắt đầu “gặt” hàng nghìn tỷ đồng từ điện thoại Vsmart và xe VinFast
Vingroup của ông Phạm Nhật Vượng đang dần chuyển từ một công ty bất động sản sang công ty công nghệ

Riêng VHM tăng giá 4.200 đồng lên 88.200 đồng/cổ phiếu đã đóng góp cho chỉ số tới 4,15 điểm. Bên cạnh đó, HPG, VRE, BID, MWG, PLX cũng hỗ trợ đáng kể cho VN-Index.

Ngược lại, VIC lại khép lại ngày giao dịch cuối tháng 7 với trạng thái giảm giá, lấy đi của VN-Index 0,49 điểm. Ngoài ra, một loạt mã giảm như VCB, SAB, BVH, NVL, TCB, VNM cũng có tác động kìm đà phục hồi của chỉ số.

Có thể thấy, trạng thái giảm của VIC đơn thuần đến từ hoạt động chốt lời của giới đầu tư sau khi mã này liên tục lập đỉnh giá mới. Vingroup vừa công bố báo cáo tài chính, trong đó cho thấy sự tăng trưởng khá mạnh của kết quả kinh doanh.

Cụ thể, tổng doanh thu thuần hợp nhất của tập đoàn này trong quý đạt 39.457 tỷ đồng, tăng 22% so với cùng kỳ; lãi trước thuế 4.894 tỷ đồng, tăng 38% và lãi sau thuế 2.343 tỷ đồng, tăng tới 218%.

Luỹ kế nửa đầu năm, tập đoàn của ông Phạm Nhật Vượng đạt 61.280 tỷ đồng doanh thu thuần, tăng nhẹ so với cùng kỳ. Tổng lãi trước thuế đạt 6.822 tỷ đồng và lãi sau thuế 3.352 tỷ đồng, lần lượt tăng khoảng 10% và 89%.

Trong cơ cấu doanh thu của Vingroup, 23% là đóng góp từ mảng bán lẻ. Trong nửa đầu năm nay, doanh thu bán lẻ mang về cho Vingroup trên 14.000 tỷ đồng, tăng hơn 70% so cùng kỳ. Mảng sản xuất (trong đó có sản xuất điện thoại VinSmart và ô tô, xe máy VinFast) cũng đã bắt đầu đem lại doanh thu 2.445 tỷ đồng.

Trở lại với thị trường chứng khoán, phiên 31/7, thanh khoản trên các sàn đạt khá tốt. Có 172,87 triệu cổ phiếu giao dịch trên HSX tương ứng giá trị giao dịch đạt 4.995,52 tỷ đồng; trong khi đó con số này trên HNX là 29,63 triệu cổ phiếu tương ứng 342,65 tỷ đồng.

Theo nhận xét của VDSC, phiên cuối tháng 7, các cổ phiếu vốn hóa lớn phục hồi nhanh hơn, trong khi các cổ phiếu vừa và nhỏ vẫn chịu áp lực bán khá lớn. Theo đó, thị trường được cho là sẽ khó giảm sâu và chỉ số VN-Index đang được hỗ trợ tại vùng 975-980 điểm. Các cổ phiếu sẽ tiếp tục phân hóa dựa trên kết quả kinh doanh quý II.

Còn BVSC thì đánh giá, sau khi cho phản ứng hồi phục tương đối tích cực trong phiên hôm qua, VN-Index dự báo sẽ tiến đến thử thách lại vùng kháng cự tâm lý 1.000-1.005 điểm trong những phiên còn lại của tuần.

Mặc dù vậy, nhóm phân tích cũng lưu ý rằng, thị trường có thể sẽ chịu ảnh hưởng đáng kể từ kết quả cuộc họp của FED được công bố vào hôm nay. Trong kịch bản, FED không tăng lãi suất, thị trường có thể chịu ảnh hưởng tiêu cực và quay về kiểm định vùng hỗ trợ 980-983 điểm trong phiên kế tiếp.

Bên cạnh đó, hoạt động tái cơ cấu danh mục của các quỹ đầu tư theo rổ chỉ số VN30 vẫn sẽ tạo ảnh hưởng rõ nét lên thị trường trong, qua đó có thể khiến các cổ phiếu bluechips trong rổ VN30 có biến động tương đối khó lường trong những phiên còn lại của tuần.

Nhà đầu tư được khuyến nghị duy trì tỷ trọng danh mục ở mức 35-40% cổ phiếu trong giai đoạn này. Với các nhà đầu tư đang nắm giữ tỷ trọng cổ phiếu cao có thể canh bán hạ tỷ trọng tại vùng 995-1000 điểm. Các hoạt động mua mới chỉ nên thực hiện trong các nhịp điều chỉnh của thị trường và tập trung vào các cổ phiếu cơ bản, vốn hóa lớn…

Theo Dân trí

Giá cổ phiếu BP tăng vọt mặc dù kết quả kinh doanh giảm
“Đế chế bất động sản” của tỷ phú Phạm Nhật Vượng gây choáng với doanh thu, lãi “khủng”
Công ty nông nghiệp của Bầu Đức tăng vốn lên hơn 11.000 tỷ đồng
Sau thương vụ “nghìn tỷ”, bà Mai Kiều Liên gây “sốc” với doanh thu kỷ lục
Dùng 26 tài khoản thao túng giá cổ phiếu, chưa hưởng lợi đã bị phạt hơn nửa tỷ đồng
Tỷ phú số 1 Việt Nam giàu cỡ nào?

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,250 75,250
Nguyên liệu 999 - HN 74,150 75,150
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 28/04/2024 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 28/04/2024 10:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 28/04/2024 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 28/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,236 16,256 16,856
CAD 18,226 18,236 18,936
CHF 27,195 27,215 28,165
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,239 26,449 27,739
GBP 31,092 31,102 32,272
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 155.83 155.98 165.53
KRW 16.19 16.39 20.19
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,215 2,335
NZD 14,779 14,789 15,369
SEK - 2,245 2,380
SGD 18,035 18,045 18,845
THB 632.42 672.42 700.42
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 28/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 28/04/2024 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/04/2024 10:00