Nhịp đập năng lượng ngày 3/9/2023

00:31 | 04/09/2023

8,578 lượt xem
|
(PetroTimes) - Việt Nam tiên phong trong phát triển năng lượng mặt trời ở khu vực ASEAN; Dầu thô Nga tiếp tục vượt mức giá trần của phương Tây; Xuất khẩu LNG của Mỹ giảm vì nắng nóng… là những tin tức nổi bật về năng lượng trong nước và quốc tế ngày 3/9/2023.
Ảnh minh họa: Nguyễn Trường Sơn
Ảnh minh họa: Nguyễn Trường Sơn

Việt Nam tiên phong trong phát triển năng lượng mặt trời ở khu vực ASEAN

Với chủ đề “Tâm điểm của tăng trưởng” của ASEAN 2023, Fabby Tumiwa và Marlistya Citraningrum của Nikkei chỉ ra, ASEAN vẫn chưa củng cố vai trò lãnh đạo về năng lượng sạch, nhưng đã đạt được tiến bộ đáng chú ý về mặt cam kết và lắp đặt. Năng lượng mặt trời đã đi vào chính sách chủ lưu ở hầu hết các nước thành viên ASEAN.

Với tư cách là quốc gia dẫn đầu, chỉ trong vòng 4 năm, Việt Nam bổ sung thêm gần 20 gigawatt công suất năng lượng mặt trời nhờ mức giá đảm bảo thuận lợi cho các nhà sản xuất điện. Thái Lan đứng thứ hai với 3 gigawatt năng lượng mặt trời, trong khi Indonesia có chưa tới 1 gigawatt. Ngoài ra, Việt Nam cũng có bước tiến đáng chú ý với năng lượng gió.

Đông Nam Á hiện có công suất sản xuất các module và bộ phận tạo ra năng lượng mặt trời ở mức 69 gigawatt hằng năm, theo McKinsey & Co. Thái Lan, Việt Nam và Malaysia chiếm khoảng 10% sản lượng module và pin mặt trời toàn cầu.

Điều đáng chú ý là phần lớn hoạt động sản xuất này do các công ty Trung Quốc kiểm soát. Đông Nam Á vẫn chưa đáp ứng được về năng lực sản xuất polysilicon hoặc wafer mà vẫn phải nhập khẩu những mặt hàng này từ Trung Quốc. Nikkei kết luận: "Hợp tác trong ngành năng lượng mặt trời có thể là kết quả thực tế và hữu hình trong vai trò chủ tịch của Indonesia và mang lại sự hỗ trợ kịp thời cho quá trình chuyển đổi năng lượng của ASEAN".

Dầu thô Nga tiếp tục vượt mức giá trần của phương Tây

Bất chấp bị phương Tây xa lánh, dầu thô Nga vẫn được các khách hàng châu Á ưa chuộng, giá bán tiếp tục cao hơn mức giá trần (60 USD/thùng) của Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) và châu Âu.

Theo dữ liệu do Nga công bố, giá Urals - dầu thô hàng đầu của Nga, đạt trung bình 74 USD/thùng trong tháng 8, giảm nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng cao hơn nhiều so với mức giá trần của G7 là 60 USD và cao hơn mức trung bình tháng 7 là 64,37 USD/thùng. Để so sánh, giá trung bình của dầu Brent Biển Bắc là 86,20 USD/thùng trong tháng 8.

Dữ liệu của Bộ Kinh tế Nga cho thấy từ tháng 1 đến tháng 8/2023, giá trung bình của Urals là 56,58 USD/thùng, so với mức trung bình 82,13 USD/thùng trong cùng kỳ năm 2022. Tháng 8 là tháng thứ 2 liên tiếp giá dầu Urals trung bình của Nga vượt quá mức giá trần 60 USD do G7 và EU đặt ra nếu các chuyến hàng dầu thô của Nga tới các nước thứ ba ngoài EU sử dụng bảo hiểm và tài chính của phương Tây.

Châu Âu vượt qua cuộc khủng hoảng năng lượng nhờ sản lượng công nghiệp giảm

"Hiện tại, châu Âu đang vượt qua cuộc khủng hoảng năng lượng nhờ sản lượng công nghiệp giảm", chuyên gia Javier Blas, người phụ trách chuyên mục các vấn đề năng lượng và hàng hóa của tờ Bloomberg đi đến kết luận này trong bài phân tích của mình.

Nhà báo Blas nhận định rằng cuộc khủng hoảng sản xuất đang bao trùm châu Âu là "biện pháp tốt nhất" để giảm nhu cầu năng lượng (khí đốt tự nhiên qua đường ống và khí tự nhiên hóa lỏng - LNG chở theo tàu biển). Javier Blas cho biết, hoạt động sản xuất công nghiệp ở Đức đã giảm trong 14 tháng liên tiếp và gọi tình trạng trên là “liều thuốc giải độc cho nhu cầu cấp thiết giảm tiêu thụ năng lượng của Liên minh châu Âu”.

Trên khắp châu Âu, các công ty sử dụng nhiều năng lượng đã cắt giảm, hoặc ngừng sản xuất hoàn toàn vì họ không thể đối phó với giá nhiên liệu tăng cao. Các ngành phân bón, hóa chất, luyện kim, thủy tinh, giấy và gốm sứ bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Hiện tại, nhiều nhà máy sản xuất lớn đã đóng cửa, do vậy họ không còn cần đến khí đốt hay điện, nên giờ đây chẳng cần phải vất vả tìm nhà cung cấp như trong thời kỳ cao điểm sản xuất cách đây ít lâu.

Xuất khẩu LNG của Mỹ giảm vì nắng nóng

Theo số liệu giám sát tàu hàng và nhận định của các nhà phân tích, hoạt động xuất khẩu LNG của Mỹ đã giảm trong tháng 8/2023. Nhiệt độ cao và hạn hán đã ảnh hưởng tới Tây Nam nước Mỹ hồi tháng trước, dẫn tới nhu cầu điện cao kỷ lục và buộc nhà cung cấp phải yêu cầu người dùng tự nguyện giảm mức tiêu thụ.

Nguồn cung khí đốt cho 7 cơ sở xuất khẩu LNG lớn nhất của Mỹ đã giảm từ 12,7 tỷ ft khối/ngày trong tháng 7 xuống trung bình 12,3 tỷ ft khối/ngày hồi tháng 8, thấp hơn khá nhiều so với mức kỷ lục 14 tỷ ft khối/ngày hồi tháng 4.

Theo dữ liệu sơ bộ từ nền tảng theo dõi thị trường LSEG Eikon (Mỹ), sản lượng khí đốt tự nhiên của Mỹ tăng từ 102,1 tỷ ft khối/ngày trong tháng 7 lên 102,2 tỷ ft khối/ngày trong tháng vừa qua. Tuy nhiên, nhu cầu rất cao từ các nhà máy điện chạy bằng khí đốt, đặc biệt là ở Texas, đã làm giảm lượng dự trữ nhiên liệu này.

Ngoài ra, việc tạm dừng hoạt động để bảo trì cũng hạn chế việc xử lý LNG tại hai cơ sở đặt ở Louisiana và Texas của công ty năng lượng Cheniere Energy. Các nhà phân tích dự báo khối lượng khí đốt của Mỹ được chuyển vào các nhà máy xuất khẩu LNG trong tháng 9 sẽ tăng trở lại, khi các cơ sở phục hồi tốc độ xử lý bình thường.

Nhịp đập năng lượng ngày 1/9/2023Nhịp đập năng lượng ngày 1/9/2023
Nhịp đập năng lượng ngày 2/9/2023Nhịp đập năng lượng ngày 2/9/2023

H.T (t/h)

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,000 151,000
Hà Nội - PNJ 148,000 151,000
Đà Nẵng - PNJ 148,000 151,000
Miền Tây - PNJ 148,000 151,000
Tây Nguyên - PNJ 148,000 151,000
Đông Nam Bộ - PNJ 148,000 151,000
Cập nhật: 20/10/2025 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,800 ▲100K 15,100
Trang sức 99.9 14,790 ▲100K 15,090
NL 99.99 14,800 ▲100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,800 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,900 ▲100K 15,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,900 ▲100K 15,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,900 ▲100K 15,100
Miếng SJC Thái Bình 15,000 ▲50K 15,100
Miếng SJC Nghệ An 15,000 ▲50K 15,100
Miếng SJC Hà Nội 15,000 ▲50K 15,100
Cập nhật: 20/10/2025 09:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,495 15,102
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,495 15,103
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,502
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,503
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,457 1,487
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 142,728 147,228
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,186 111,686
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 93,776 101,276
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,366 90,866
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,351 86,851
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,664 62,164
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,495 151
Cập nhật: 20/10/2025 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16578 16847 17436
CAD 18256 18532 19149
CHF 32561 32945 33595
CNY 0 3470 3830
EUR 30057 30330 31361
GBP 34558 34950 35889
HKD 0 3260 3463
JPY 168 172 178
KRW 0 17 19
NZD 0 14774 15359
SGD 19787 20069 20606
THB 719 782 837
USD (1,2) 26076 0 0
USD (5,10,20) 26117 0 0
USD (50,100) 26145 26165 26356
Cập nhật: 20/10/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,156 26,156 26,356
USD(1-2-5) 25,110 - -
USD(10-20) 25,110 - -
EUR 30,447 30,471 31,570
JPY 172.51 172.82 179.89
GBP 35,031 35,126 35,934
AUD 16,796 16,857 17,287
CAD 18,461 18,520 19,032
CHF 33,037 33,140 33,792
SGD 20,003 20,065 20,676
CNY - 3,651 3,745
HKD 3,341 3,351 3,431
KRW 17.18 17.92 19.22
THB 773.87 783.43 833.25
NZD 14,803 14,940 15,281
SEK - 2,759 2,837
DKK - 4,072 4,186
NOK - 2,581 2,654
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,844.13 - 6,550
TWD 777.39 - 935.29
SAR - 6,925.89 7,244.45
KWD - 84,140 88,935
Cập nhật: 20/10/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,175 26,176 26,356
EUR 30,246 30,367 31,451
GBP 34,804 34,944 35,882
HKD 3,325 3,338 3,440
CHF 32,708 32,839 33,732
JPY 171.48 172.17 179.09
AUD 16,763 16,830 17,346
SGD 20,034 20,114 20,626
THB 789 792 826
CAD 18,441 18,515 18,996
NZD 14,859 15,336
KRW 17.84 19.50
Cập nhật: 20/10/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26340
AUD 16776 16876 17482
CAD 18444 18544 19148
CHF 32803 32833 33720
CNY 0 3661.1 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 30265 30295 31318
GBP 34861 34911 36033
HKD 0 3390 0
JPY 171.16 171.66 178.67
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.146 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14901 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19951 20081 20814
THB 0 747.7 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 14000000 14000000 16700000
SBJ 13000000 13000000 16700000
Cập nhật: 20/10/2025 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,135 26,185 26,356
USD20 26,135 26,185 26,356
USD1 23,846 26,185 26,356
AUD 16,706 16,806 17,946
EUR 30,485 30,485 31,849
CAD 18,328 18,428 19,769
SGD 20,021 20,171 20,672
JPY 172.57 174.07 178.92
GBP 34,933 35,083 35,905
XAU 15,148,000 0 15,302,000
CNY 0 3,541 0
THB 0 787 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/10/2025 09:00