Mọi con mắt đổ dồn về OPEC+ khi giá dầu xuống dưới 90 USD

13:00 | 09/09/2022

1,414 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - OPEC + có thể phải cắt giảm sâu hơn nhiều mục tiêu sản lượng dầu chung của họ vào mùa đông khi suy thoái kinh tế bùng phát ở châu Âu, trong bối cảnh khu vực này phải vật lộn với cuộc khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng và Trung Quốc có dấu hiệu suy giảm nhu cầu dầu.
Mọi con mắt đổ dồn về OPEC+ khi giá dầu xuống dưới 90 USD

Việc OPEC+ thông báo cắt giảm 100.000 thùng/ngày hôm 5/9 phần lớn không liên quan đến cân bằng thị trường dầu. Các nhà phân tích cho biết, nó đã gửi một thông điệp mạnh mẽ tới thị trường rằng liên minh OPEC + đang quay trở lại chế độ theo dõi giá và tỏ ra quyết tâm không để dầu giảm quá xa vùng giá 90 USD/thùng.

Lo sợ suy thoái

Sau đợt phục hồi ban đầu mặc dù không đáng kể - liên quan đến việc cắt giảm mục tiêu sản lượng, thị trường dầu mỏ đã chứng kiến ​​OPEC+ biến động như một sự thừa nhận về nhu cầu thấp hơn.

Điều này cùng với chính sách "zero Covid" ở Trung Quốc, đã đè nặng lên giá dầu vào các ngày 6,7/9. Giá dầu thô trong tuần này giảm xuống dưới 90 USD/thùng - mức thấp nhất kể từ tháng 1, trước khi xảy ra xung đột Nga - Ukraine.

Bên cạnh đó là cuộc suy thoái dự kiến ​​sắp xảy ra ở các nền kinh tế lớn ở châu Âu - được kích hoạt bởi cuộc khủng hoảng năng lượng, giá cả tăng vọt và các đợt tăng lãi suất từ các ngân hàng trung ương, bao gồm cả Fed, cũng như triển vọng kinh tế thế giới có vẻ không khả quan.

Trong một báo cáo vào tuần trước, Fitch Ratings nhận định, suy thoái ở Khu vực đồng tiền chung châu Âu dường như có thể do cuộc khủng hoảng khí đốt ngày càng sâu sắc, ngay cả trước khi Nga tuyên bố đường ống dẫn khí Nord Stream đến Đức sẽ đóng cửa vô thời hạn.

Dù hiện tại có vẻ như OPEC+ đang cố gắng bảo vệ mốc 90 USD/thùng, liên minh này có thể phải cắt giảm sản lượng sâu hơn nhiều và có thể kết thúc việc bảo vệ giá dầu 50 USD/thùng vào đầu năm tới, Clyde Russell, Chuyên gia hàng hóa và năng lượng châu Á tại Reuters cho hay.

Sự không chắc chắn về nguồn cung cấp

Suy thoái kinh tế toàn cầu hay suy thoái kinh tế ở châu Âu sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu và giá dầu. Nhưng cũng có những bất ổn lớn về nguồn cung. Do đó, ngay cả trong cuộc suy thoái do khủng hoảng năng lượng gây ra, thị trường dầu mỏ vẫn có thể đủ thắt chặt để hỗ trợ giá dầu tăng cao. Hiện tại không ai có thể đoán được mức trần giá dự kiến ​​đối với dầu của Nga sẽ tác động đến các thị trường như thế nào, đặc biệt nếu Nga tiếp tục đe dọa ngừng xuất khẩu dầu của mình cho các nhà nhập khẩu sẽ tham gia cơ chế giới hạn đó.

Tổng thống Nga Vladimir Putin hôm 7/9 nhấn mạnh rằng, nước này sẽ ngừng cung cấp tất cả các sản phẩm năng lượng cho châu Âu nếu EU và các đồng minh phương Tây áp đặt giới hạn giá đối với dầu và khí đốt tự nhiên của Nga.

"Chúng tôi sẽ không cung cấp khí đốt, dầu mỏ, than đá, dầu sưởi ấm. Chúng tôi sẽ không cung cấp bất cứ thứ gì", nhà lãnh đạo Nga nói.

Tổng thống Nga nói rằng giới hạn giá theo kế hoạch đối với xuất khẩu dầu và khí đốt của Nga là một "quyết định ngu ngốc".

Một sự không chắc chắn lớn khác về nguồn cung là khả năng hồi sinh thỏa thuận hạt nhân Iran. Mặc dù những diễn biến mới nhất chỉ ra một động thái "nhượng bộ" trong cuộc đàm phán gián tiếp giữa Mỹ và Iran do EU trung gian.

Mặt khác, Libya luôn không thể đoán trước được việc phải ngừng xuất khẩu dầu khi những khác biệt vẫn chưa được giải quyết về việc ai là người kiểm soát và ai sẽ nhận được nguồn thu từ dầu thô - nguồn xuất khẩu chính của đất nước.

OPEC+ "bật" chế độ theo dõi giá

Do những bất ổn, không có gì ngạc nhiên khi OPEC+ và đặc biệt là Ả Rập Xê-út báo hiệu rằng họ sẽ theo dõi diễn biến thị trường dầu một cách cẩn thận. OPEC+ chưa bao giờ công khai thừa nhận rằng họ thích một mức giá nhất định của dầu, nhưng hiện tại, có vẻ như họ đã đặt mục tiêu không để giá giảm quá nhiều.

Trong buổi họp ngày 5/9, OPEC+ đã quyết định rằng họ có thể tổ chức một cuộc họp bất thường vào bất cứ thời điểm nào để thảo luận về các hành động tiếp theo.

Bằng cách trao quyền cho người lãnh đạo liên minh, Hoàng tử Abdulaziz bin Salman, Bộ trưởng Năng lượng Ả Rập Xê-út, quyền triệu tập một cuộc họp vào bất cứ lúc nào, OPEC+ đã gửi một thông điệp mạnh mẽ tới thị trường dầu: việc cắt giảm có thể được thông báo trong thời gian ngắn, dưới bất kỳ hình thức nào.

Mặc dù việc cắt giảm sản lượng cho tháng 10 không thay đổi bất kỳ điều gì liên quan đến cân bằng cung/cầu cơ bản, nhưng sự sẵn sàng can thiệp của OPEC+ bất cứ khi nào thấy cần thiết cho thấy Ả Rập Xê-út và các thành viên OPEC+ có ảnh hưởng khác tin rằng giá dầu đã đủ để bán trong những tháng gần đây và họ sẽ chiến đấu để giữ cho chúng "ổn định." - nói cách khác là giữ giá dầu trong khoảng 90 - 100 USD/thùng.

Khi giá dầu Brent giảm xuống dưới 90 USD vào ngày 7/9 với lo ngại suy thoái, hãy mong đợi "sự can thiệp tiếp theo của OPEC+", Ole Hansen, Trưởng bộ phận Chiến lược Hàng hóa tại Ngân hàng Saxo cho biết.

Theo hãng môi giới dầu PVM Oil Associates, sự gia tăng sản lượng dầu dự kiến ​​từ bên ngoài OPEC+ vào cuối năm nay "nhạt nhòa so với sự thiếu hụt nguồn cung tiềm năng trong tương lai".

PVM Oil Associates lưu ý rằng: "Với việc thỏa thuận hạt nhân Iran vẫn chưa rõ ràng và OPEC+ đang hạn chế sản lượng, quỹ đạo đi lên trong dài hạn của nguồn cung dầu toàn cầu có thể sớm kết thúc".

"Do đó, tình trạng thắt chặt có thể gia tăng trong ba tháng cuối năm. Đây nên được coi là dấu hiệu cảnh báo sớm cho những người đặt cược vào việc giá tiếp tục giảm trong giai đoạn cuối năm", PVM Oil Associates cho biết thêm.

Phân tích tác động từ thông báo cắt giảm sản lượng của OPEC+ và dự dịnh áp giá trần dầu Nga Phân tích tác động từ thông báo cắt giảm sản lượng của OPEC+ và dự dịnh áp giá trần dầu Nga
OPEC+ cắt giảm sản lượng bất chấp Nga phản đối OPEC+ cắt giảm sản lượng bất chấp Nga phản đối
Nga không ủng hộ việc OPEC+ cắt giảm sản lượng Nga không ủng hộ việc OPEC+ cắt giảm sản lượng

Bình An

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,400 117,700
AVPL/SJC HCM 115,400 117,700
AVPL/SJC ĐN 115,400 117,700
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 06/06/2025 11:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
TPHCM - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Hà Nội - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Hà Nội - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Đà Nẵng - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Đà Nẵng - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Miền Tây - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Miền Tây - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.300 ▲300K 113.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.190 ▲300K 113.690 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.490 ▲300K 112.990 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.260 ▲290K 112.760 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.000 ▲220K 85.500 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.220 ▲170K 66.720 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.990 ▲120K 47.490 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.840 ▲270K 104.340 ▲270K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.070 ▲180K 69.570 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.620 ▲190K 74.120 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.030 ▲200K 77.530 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.330 ▲120K 42.830 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.200 ▲90K 37.700 ▲90K
Cập nhật: 06/06/2025 11:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,010 11,440
Trang sức 99.9 11,000 11,430
NL 99.99 10,760
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,760
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,220 11,500
Miếng SJC Thái Bình 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Miếng SJC Nghệ An 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Miếng SJC Hà Nội 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Cập nhật: 06/06/2025 11:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16412 16680 17264
CAD 18545 18822 19441
CHF 31138 31516 32167
CNY 0 3530 3670
EUR 29198 29468 30500
GBP 34575 34967 35914
HKD 0 3192 3394
JPY 174 178 184
KRW 0 18 19
NZD 0 15439 16027
SGD 19749 20030 20548
THB 715 779 832
USD (1,2) 25805 0 0
USD (5,10,20) 25845 0 0
USD (50,100) 25873 25907 26241
Cập nhật: 06/06/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,930 35,024 35,959
HKD 3,263 3,272 3,371
CHF 31,306 31,404 32,277
JPY 177.68 178 185.94
THB 762 771.41 825.07
AUD 16,733 16,794 17,247
CAD 18,815 18,875 19,385
SGD 19,921 19,983 20,615
SEK - 2,677 2,770
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,933 4,069
NOK - 2,544 2,633
CNY - 3,593 3,691
RUB - - -
NZD 15,418 15,562 16,016
KRW 17.84 - 19.98
EUR 29,382 29,406 30,658
TWD 786.34 - 951.34
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,666 88,008
XAU - - -
Cập nhật: 06/06/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 06/06/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25879 25879 26240
AUD 16583 16683 17251
CAD 18718 18818 19374
CHF 31372 31402 32275
CNY 0 3593.4 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29459 29559 30337
GBP 34859 34909 36025
HKD 0 3270 0
JPY 177.79 178.79 185.33
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15529 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19885 20015 20746
THB 0 743.6 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10800000 10800000 11750000
Cập nhật: 06/06/2025 11:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,890 25,940 26,241
USD20 25,890 25,940 26,241
USD1 25,890 25,940 26,241
AUD 16,665 16,815 17,886
EUR 29,536 29,686 30,862
CAD 18,671 18,771 20,088
SGD 19,960 20,110 20,586
JPY 178.31 179.81 184.46
GBP 34,982 35,132 35,930
XAU 11,538,000 0 11,772,000
CNY 0 3,481 0
THB 0 780 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/06/2025 11:00