Mọi con mắt đổ dồn về OPEC+ khi giá dầu xuống dưới 90 USD

13:00 | 09/09/2022

1,418 lượt xem
|
(PetroTimes) - OPEC + có thể phải cắt giảm sâu hơn nhiều mục tiêu sản lượng dầu chung của họ vào mùa đông khi suy thoái kinh tế bùng phát ở châu Âu, trong bối cảnh khu vực này phải vật lộn với cuộc khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng và Trung Quốc có dấu hiệu suy giảm nhu cầu dầu.
Mọi con mắt đổ dồn về OPEC+ khi giá dầu xuống dưới 90 USD

Việc OPEC+ thông báo cắt giảm 100.000 thùng/ngày hôm 5/9 phần lớn không liên quan đến cân bằng thị trường dầu. Các nhà phân tích cho biết, nó đã gửi một thông điệp mạnh mẽ tới thị trường rằng liên minh OPEC + đang quay trở lại chế độ theo dõi giá và tỏ ra quyết tâm không để dầu giảm quá xa vùng giá 90 USD/thùng.

Lo sợ suy thoái

Sau đợt phục hồi ban đầu mặc dù không đáng kể - liên quan đến việc cắt giảm mục tiêu sản lượng, thị trường dầu mỏ đã chứng kiến ​​OPEC+ biến động như một sự thừa nhận về nhu cầu thấp hơn.

Điều này cùng với chính sách "zero Covid" ở Trung Quốc, đã đè nặng lên giá dầu vào các ngày 6,7/9. Giá dầu thô trong tuần này giảm xuống dưới 90 USD/thùng - mức thấp nhất kể từ tháng 1, trước khi xảy ra xung đột Nga - Ukraine.

Bên cạnh đó là cuộc suy thoái dự kiến ​​sắp xảy ra ở các nền kinh tế lớn ở châu Âu - được kích hoạt bởi cuộc khủng hoảng năng lượng, giá cả tăng vọt và các đợt tăng lãi suất từ các ngân hàng trung ương, bao gồm cả Fed, cũng như triển vọng kinh tế thế giới có vẻ không khả quan.

Trong một báo cáo vào tuần trước, Fitch Ratings nhận định, suy thoái ở Khu vực đồng tiền chung châu Âu dường như có thể do cuộc khủng hoảng khí đốt ngày càng sâu sắc, ngay cả trước khi Nga tuyên bố đường ống dẫn khí Nord Stream đến Đức sẽ đóng cửa vô thời hạn.

Dù hiện tại có vẻ như OPEC+ đang cố gắng bảo vệ mốc 90 USD/thùng, liên minh này có thể phải cắt giảm sản lượng sâu hơn nhiều và có thể kết thúc việc bảo vệ giá dầu 50 USD/thùng vào đầu năm tới, Clyde Russell, Chuyên gia hàng hóa và năng lượng châu Á tại Reuters cho hay.

Sự không chắc chắn về nguồn cung cấp

Suy thoái kinh tế toàn cầu hay suy thoái kinh tế ở châu Âu sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu và giá dầu. Nhưng cũng có những bất ổn lớn về nguồn cung. Do đó, ngay cả trong cuộc suy thoái do khủng hoảng năng lượng gây ra, thị trường dầu mỏ vẫn có thể đủ thắt chặt để hỗ trợ giá dầu tăng cao. Hiện tại không ai có thể đoán được mức trần giá dự kiến ​​đối với dầu của Nga sẽ tác động đến các thị trường như thế nào, đặc biệt nếu Nga tiếp tục đe dọa ngừng xuất khẩu dầu của mình cho các nhà nhập khẩu sẽ tham gia cơ chế giới hạn đó.

Tổng thống Nga Vladimir Putin hôm 7/9 nhấn mạnh rằng, nước này sẽ ngừng cung cấp tất cả các sản phẩm năng lượng cho châu Âu nếu EU và các đồng minh phương Tây áp đặt giới hạn giá đối với dầu và khí đốt tự nhiên của Nga.

"Chúng tôi sẽ không cung cấp khí đốt, dầu mỏ, than đá, dầu sưởi ấm. Chúng tôi sẽ không cung cấp bất cứ thứ gì", nhà lãnh đạo Nga nói.

Tổng thống Nga nói rằng giới hạn giá theo kế hoạch đối với xuất khẩu dầu và khí đốt của Nga là một "quyết định ngu ngốc".

Một sự không chắc chắn lớn khác về nguồn cung là khả năng hồi sinh thỏa thuận hạt nhân Iran. Mặc dù những diễn biến mới nhất chỉ ra một động thái "nhượng bộ" trong cuộc đàm phán gián tiếp giữa Mỹ và Iran do EU trung gian.

Mặt khác, Libya luôn không thể đoán trước được việc phải ngừng xuất khẩu dầu khi những khác biệt vẫn chưa được giải quyết về việc ai là người kiểm soát và ai sẽ nhận được nguồn thu từ dầu thô - nguồn xuất khẩu chính của đất nước.

OPEC+ "bật" chế độ theo dõi giá

Do những bất ổn, không có gì ngạc nhiên khi OPEC+ và đặc biệt là Ả Rập Xê-út báo hiệu rằng họ sẽ theo dõi diễn biến thị trường dầu một cách cẩn thận. OPEC+ chưa bao giờ công khai thừa nhận rằng họ thích một mức giá nhất định của dầu, nhưng hiện tại, có vẻ như họ đã đặt mục tiêu không để giá giảm quá nhiều.

Trong buổi họp ngày 5/9, OPEC+ đã quyết định rằng họ có thể tổ chức một cuộc họp bất thường vào bất cứ thời điểm nào để thảo luận về các hành động tiếp theo.

Bằng cách trao quyền cho người lãnh đạo liên minh, Hoàng tử Abdulaziz bin Salman, Bộ trưởng Năng lượng Ả Rập Xê-út, quyền triệu tập một cuộc họp vào bất cứ lúc nào, OPEC+ đã gửi một thông điệp mạnh mẽ tới thị trường dầu: việc cắt giảm có thể được thông báo trong thời gian ngắn, dưới bất kỳ hình thức nào.

Mặc dù việc cắt giảm sản lượng cho tháng 10 không thay đổi bất kỳ điều gì liên quan đến cân bằng cung/cầu cơ bản, nhưng sự sẵn sàng can thiệp của OPEC+ bất cứ khi nào thấy cần thiết cho thấy Ả Rập Xê-út và các thành viên OPEC+ có ảnh hưởng khác tin rằng giá dầu đã đủ để bán trong những tháng gần đây và họ sẽ chiến đấu để giữ cho chúng "ổn định." - nói cách khác là giữ giá dầu trong khoảng 90 - 100 USD/thùng.

Khi giá dầu Brent giảm xuống dưới 90 USD vào ngày 7/9 với lo ngại suy thoái, hãy mong đợi "sự can thiệp tiếp theo của OPEC+", Ole Hansen, Trưởng bộ phận Chiến lược Hàng hóa tại Ngân hàng Saxo cho biết.

Theo hãng môi giới dầu PVM Oil Associates, sự gia tăng sản lượng dầu dự kiến ​​từ bên ngoài OPEC+ vào cuối năm nay "nhạt nhòa so với sự thiếu hụt nguồn cung tiềm năng trong tương lai".

PVM Oil Associates lưu ý rằng: "Với việc thỏa thuận hạt nhân Iran vẫn chưa rõ ràng và OPEC+ đang hạn chế sản lượng, quỹ đạo đi lên trong dài hạn của nguồn cung dầu toàn cầu có thể sớm kết thúc".

"Do đó, tình trạng thắt chặt có thể gia tăng trong ba tháng cuối năm. Đây nên được coi là dấu hiệu cảnh báo sớm cho những người đặt cược vào việc giá tiếp tục giảm trong giai đoạn cuối năm", PVM Oil Associates cho biết thêm.

Phân tích tác động từ thông báo cắt giảm sản lượng của OPEC+ và dự dịnh áp giá trần dầu Nga Phân tích tác động từ thông báo cắt giảm sản lượng của OPEC+ và dự dịnh áp giá trần dầu Nga
OPEC+ cắt giảm sản lượng bất chấp Nga phản đối OPEC+ cắt giảm sản lượng bất chấp Nga phản đối
Nga không ủng hộ việc OPEC+ cắt giảm sản lượng Nga không ủng hộ việc OPEC+ cắt giảm sản lượng

Bình An

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Hà Nội - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Đà Nẵng - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Miền Tây - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Tây Nguyên - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Đông Nam Bộ - PNJ 144,200 ▲1700K 147,200 ▲1700K
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,450 ▲220K 14,750 ▲150K
Trang sức 99.9 14,440 ▲220K 14,740 ▲150K
NL 99.99 14,450 ▲220K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,450 ▲220K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,510 ▲130K 14,760 ▲150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,510 ▲130K 14,760 ▲150K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,510 ▲130K 14,760 ▲150K
Miếng SJC Thái Bình 14,560 ▲150K 14,760 ▲150K
Miếng SJC Nghệ An 14,560 ▲150K 14,760 ▲150K
Miếng SJC Hà Nội 14,560 ▲150K 14,760 ▲150K
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,456 ▲15K 14,762 ▲150K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,456 ▲15K 14,763 ▲150K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,437 ▲14K 1,459 ▲14K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,437 ▲14K 146 ▼1300K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,414 ▲1274K 1,444 ▲1301K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 13,847 ▼123237K 14,297 ▼127287K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 100,961 ▲1050K 108,461 ▲1050K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 90,852 ▲89953K 98,352 ▲97378K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,743 ▲854K 88,243 ▲854K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,844 ▲817K 84,344 ▲817K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,871 ▲584K 60,371 ▲584K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,456 ▲15K 1,476 ▲15K
Cập nhật: 15/10/2025 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16636 16905 17478
CAD 18240 18516 19127
CHF 32293 32676 33324
CNY 0 3470 3830
EUR 29991 30264 31288
GBP 34377 34769 35691
HKD 0 3257 3459
JPY 167 171 177
KRW 0 17 19
NZD 0 14758 15344
SGD 19797 20078 20592
THB 726 789 842
USD (1,2) 26080 0 0
USD (5,10,20) 26121 0 0
USD (50,100) 26149 26184 26369
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,169 26,169 26,369
USD(1-2-5) 25,123 - -
USD(10-20) 25,123 - -
EUR 30,208 30,232 31,355
JPY 170.95 171.26 178.3
GBP 34,748 34,842 35,625
AUD 16,878 16,939 17,366
CAD 18,473 18,532 19,044
CHF 32,614 32,715 33,371
SGD 19,941 20,003 20,611
CNY - 3,645 3,739
HKD 3,340 3,350 3,430
KRW 17.09 17.82 19.12
THB 773.81 783.37 833.18
NZD 14,772 14,909 15,249
SEK - 2,725 2,803
DKK - 4,041 4,154
NOK - 2,559 2,632
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,848.63 - 6,556.57
TWD 777.22 - 934.47
SAR - 6,930.14 7,248.86
KWD - 83,828 88,663
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,369
EUR 30,013 30,134 31,216
GBP 34,518 34,657 35,592
HKD 3,324 3,337 3,440
CHF 32,326 32,456 33,332
JPY 170.25 170.93 177.77
AUD 16,800 16,867 17,383
SGD 19,976 20,056 20,566
THB 788 791 825
CAD 18,449 18,523 19,004
NZD 14,827 15,304
KRW 17.72 19.37
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26369
AUD 16770 16870 17475
CAD 18415 18515 19120
CHF 32500 32530 33417
CNY 0 3661.4 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30163 30193 31216
GBP 34638 34688 35801
HKD 0 3390 0
JPY 170.52 171.02 178.08
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14862 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19931 20061 20794
THB 0 753.5 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14530000 14530000 14730000
SBJ 14000000 14000000 14730000
Cập nhật: 15/10/2025 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,175 26,225 26,369
USD20 26,175 26,225 26,369
USD1 23,859 26,225 26,369
AUD 16,824 16,924 18,045
EUR 30,316 30,316 31,647
CAD 18,366 18,466 19,785
SGD 20,014 20,164 21,190
JPY 171.01 172.51 177.15
GBP 34,731 34,881 35,666
XAU 14,408,000 0 14,612,000
CNY 0 3,540 0
THB 0 790 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/10/2025 13:00