Lãnh đạo châu Á thảo luận về một tương lai năng lượng không chắc chắn

09:43 | 25/10/2021

377 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Trong tháng 9 vừa qua, Wood Mackenzie đã tổ chức Hội nghị thượng đỉnh năng lượng toàn cầu thường niên. Phiên họp châu Á - Thái Bình Dương đã diễn ra với sự góp mặt của các nhà lãnh đạo cấp cao từ khắp các lĩnh vực năng lượng và tài nguyên thiên nhiên, thảo luận về chủ đề không phát thải carbon và tương lai của ngành năng lượng toàn cầu. Hãng phân tích Wood Mackenzie mới đây đã có bài viết phân tích về quá trình chuyển đổi năng lượng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Lãnh đạo châu Á thảo luận về một tương lai năng lượng không chắc chắn

Quá trình chuyển đổi năng lượng của châu Á đang tăng tốc nhưng vẫn còn chậm

Các công ty năng lượng và tài nguyên thiên nhiên trên khắp châu Á - Thái Bình Dương nhận thức rõ cần phải làm gì để đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu. Các nhà lãnh đạo đều đồng ý rằng, giảm phát thải carbon là nhiệm vụ rất quan trọng, đồng thời công bố các lộ trình để giảm cường độ và lượng khí thải carbon. Một số tín hiệu tích cực khác gồm: hỗ trợ tăng tốc năng lượng tái tạo, đầu tư vào các dự án thu giữ carbon, sản xuất hydro, đánh giá cao vai trò của khí thiên nhiên trong bối cảnh giảm nhu cầu than ở châu Á. Tuy nhiên, tất cả các diễn giả đều nhận định, tốc độ thay đổi chung trên toàn châu Á - Thái Bình Dương vẫn còn quá chậm.

Phần lớn sự thay đổi bắt nguồn từ chính sách của các chính phủ. Trong khi các mục tiêu không phát thải ròng carbon liên tục được công bố, thì hầu như tất các cam kết đều thiếu chi tiết những cách thức để đạt được mục tiêu này. Đối với các công ty, sự không chắc chắn về giá carbon khiến việc hỗ trợ đầu tư vào công nghệ carbon thấp, đặc biệt là CCS đang trở nên cấp thiết.

Nếu không có tiến bộ trong chính sách, tăng trưởng trong tương lai của châu Á sẽ vẫn phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch, đặc biệt là than đá. Hơn 70% lượng khí thải của toàn khu vực bắt nguồn từ than đá. Với việc điện khí hóa là nền tảng của quá trình chuyển đổi năng lượng, nhu cầu điện gia tăng có nguy cơ kéo dài sự phụ thuộc vào than đá ít nhất trong thập kỷ này. Và cuộc khủng hoảng điện hiện nay cũng đặt ra vấn đề an ninh năng lượng cấp bách, nhắc nhở các nhà lãnh đạo châu Á về vai trò của than trong việc đảm bảo ổn định lưới điện.

Nhưng ý chí chính trị cũng phải phù hợp với hành động của doanh nghiệp. Một thông điệp chính từ các diễn giả là tất cả các tùy chọn công nghệ cần được xem xét. Việc các nhà cung cấp năng lượng trên toàn khu vực tạo ra dòng tiền kỷ lục, các công ty biết rằng, họ phải nỗ lực hơn nữa là giảm lượng khí thải carbon trực tiếp từ các hoạt động năng lượng. Đồng thời, việc giảm phát thải carbon từ các sản phẩm năng lượng trong quan hệ với khách hàng nên được coi là một cơ hội thúc đẩy. Khách hàng trên khắp châu Á đang kêu gọi năng lượng sạch hơn và sẽ sớm “quay lưng” lại với các nhà cung cấp không thể giảm phát thải carbon.

Một siêu chu kỳ giá hàng hóa mới có thể xảy ra

Các chuyên gia đồng thuận rằng, sự gia tăng giá nguyên liệu thô là phản ứng tức thì đối với sức mạnh phục hồi kinh tế và tăng trưởng nhu cầu kết hợp với sự khan hiếm nguồn cung. Lãnh đạo các công ty dầu khí và các nhà đầu tư đều đồng thuận rằng, tăng trưởng kinh tế bền vững cùng với việc giảm đầu tư vào nguồn cung năng lượng và kim loại sẽ khiến giá hàng hóa tăng cao trong phần lớn thập kỷ này, mở ra giai đoạn đầu của một siêu chu kỳ giá hàng hóa mới. Tuy nhiên, siêu chu kỳ lần này sẽ có những điểm khác biệt so với những chu kỳ trong quá khứ.

Động lực chính sẽ là quá trình điện khí hóa. Và trong khi tốc độ điện khí hóa trên toàn châu Á cần tăng tốc, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ đang tăng lên trên toàn cầu, kích thích tăng trưởng nhu cầu đối với các kim loại đóng vai trò chuyển tiếp quan trọng như: đồng, nhôm, niken, coban, lithium và sắt. Nhu cầu tăng cao của châu Á đối với khí đốt thiên nhiên sẽ thúc đẩy giá khí đường ống và LNG tăng mạnh. Điều này sẽ khuyến khích giới đầu tư vào các nguồn năng lượng mới.

Nhu cầu khí đốt tăng cao đối mặt với những lo ngại về nguồn cung trong tương lai

Được thúc đẩy bởi tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi nhiên liệu từ than sang khí đốt, các diễn giả của Wood Mackenzie cho rằng, nhu cầu khí đốt của châu Á sẽ tiếp tục gia tăng bất chấp những cam kết giảm khí thải CO2. Điều này đòi hỏi những chính sách nhà nước về định giá carbon và đầu tư lớn hơn vào công nghệ CCS, làm cơ sở để thúc đẩy các dự án khí, LNG mới đến năm 2040.

Tuy nhiên, viễn cảnh về tình trạng suy giảm đầu tư đang gia tăng khi quá trình chuyển đổi năng lượng đòi hỏi những khoản đầu tư trị giá nhiều tỷ USD. Hầu hết các nhà cung cấp LNG trong khu vực như Petronas, Woodside, Origin, BP và TotalEnergies đầu cho rằng, nhu cầu LNG của châu Á đang ảnh hưởng trực tiếp đến sự thận trọng xung quanh việc cam kết nguồn cung khí mới đắt đỏ. Và đối với các chính phủ và khách hàng châu Á, sự suy giảm nguồn cung dầu khí trong tương lai, có nghĩa là sẽ phải đốt nhiều than hơn, không phải ít hơn.

Công ty dầu khí nhà nước (NOC) của tương lai - chuyển đổi mô hình từ công ty dầu khí sang công ty năng lượng

Các công ty dầu khí quốc gia của châu Á có thể đang dõi theo sự chuyển đổi mô hình hoạt động của các majors tại châu Âu, đồng thời đặt ra câu hỏi: làm thế nào để họ theo kịp tốc độ chuyển đổi trước những áp lực chuyển đổi ngày càng gia tăng. Điều này không chỉ đến từ các chính phủ sở tại, mà còn từ thị trường vốn và khách hàng. Mức độ giám sát đang tăng lên, vượt ra ngoài khuôn khổ các tuyên bố về mục tiêu giảm phát thải, đi vào những chi tiết có thể đo lường được.

Sự tiến bộ có thể dễ dàng đạt được thông qua những nỗ lực để giảm bớt khí thải trong hoạt động dầu khí, tăng cường điện khí hóa và tăng hiệu quả hoạt động thông qua số hóa. Nhưng ngoài vấn đề này, các NOC của châu Á sẽ cần phải xem xét các giải pháp dựa trên điều kiện thực thế để bù đắp lượng khí thải và cuối cùng là áp dụng tín chỉ carbon. Dầu thô và khí đốt sẽ không sớm bị loại bỏ khỏi danh mục đầu tư của NOC nhưng nhiều lãnh đạo cấp cao của các NOC châu Á đang xem xét các lựa chọn CCS và hydro. Những công nghệ mới này ngày càng trở nên quan trọng.

Trung Quốc có thể dẫn đầu quá trình chuyển đổi năng lượng

Hành động ứng phó với biến đổi khí hậu cần có sự phối hợp và thực thi chính sách kịp thời. Những cách tiếp cận và hành động của Trung Quốc đang mang lại hy vọng rằng, những cam kết không phát thải ròng carbon sẽ được thực hiện nghiêm túc. Các chuyên gia của Wood Mackenzie bày tỏ lạc quan rằng, Trung Quốc có cơ hội tốt hơn để đạt được các mục tiêu về giảm phát thải carbon nếu các cam kết mạnh mẽ được giám sát bởi chính quyền trung ương, dẫn đến thay đổi đáng kể ở tất cả các cấp độ kinh doanh và xã hội.

Những thách thức to lớn vẫn còn, đặc biệt là khi cuộc khủng hoảng điện đang củng cố sự phụ thuộc của Trung Quốc vào nhiên liệu than đá trong thời gian khủng hoảng. Điều này dấy lên hoài nghi rằng, Trung Quốc có thể đạt mục tiêu không phát thải ròng carbon, cũng như trở thành nhà lãnh đạo của quá trình chuyển đổi năng lượng hay không.

Tiến Thắng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
AVPL/SJC HCM 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
AVPL/SJC ĐN 114,900 ▼1100K 117,200 ▼800K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
TPHCM - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Hà Nội - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Hà Nội - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Đà Nẵng - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Đà Nẵng - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Miền Tây - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Miền Tây - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 111.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 114.900 ▼1100K 117.200 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 111.000 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 111.000 ▼1000K 113.600 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 ▼800K 113.000 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 ▼800K 112.890 ▼800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 ▼790K 112.200 ▼790K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 ▼790K 111.970 ▼790K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 ▼600K 84.900 ▼600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 ▼460K 66.260 ▼460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 ▼330K 47.160 ▼330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 ▼730K 103.610 ▼730K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 ▼490K 69.080 ▼490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 ▼520K 73.600 ▼520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 ▼540K 76.990 ▼540K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 ▼300K 42.530 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 ▼260K 37.440 ▼260K
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,990 ▼20K 11,410 ▼30K
Trang sức 99.9 10,980 ▼20K 11,400 ▼30K
NL 99.99 10,740 ▼20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,740 ▼20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,200 ▼20K 11,470 ▼30K
Miếng SJC Thái Bình 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Miếng SJC Nghệ An 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Miếng SJC Hà Nội 11,490 ▼110K 11,720 ▼80K
Cập nhật: 07/06/2025 20:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16380 16648 17235
CAD 18487 18764 19394
CHF 31053 31431 32090
CNY 0 3530 3670
EUR 29048 29317 30362
GBP 34416 34807 35772
HKD 0 3188 3392
JPY 172 177 183
KRW 0 18 19
NZD 0 15355 15946
SGD 19657 19938 20475
THB 710 773 827
USD (1,2) 25784 0 0
USD (5,10,20) 25823 0 0
USD (50,100) 25851 25885 26240
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,842 34,937 35,867
HKD 3,262 3,272 3,371
CHF 31,242 31,339 32,210
JPY 177.2 177.52 185.46
THB 761.53 770.94 825.07
AUD 16,692 16,753 17,208
CAD 18,808 18,869 19,378
SGD 19,916 19,978 20,610
SEK - 2,671 2,765
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,926 4,062
NOK - 2,540 2,629
CNY - 3,590 3,687
RUB - - -
NZD 15,393 15,536 15,992
KRW 17.83 - 19.97
EUR 29,331 29,354 30,605
TWD 786.63 - 952.32
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,650 87,991
XAU - - -
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25865 25865 26225
AUD 16556 16656 17221
CAD 18685 18785 19344
CHF 31308 31338 32212
CNY 0 3590 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29383 29483 30256
GBP 34760 34810 35912
HKD 0 3270 0
JPY 177.23 178.23 184.79
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15500 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19863 19993 20726
THB 0 743.7 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10000000 10000000 11750000
Cập nhật: 07/06/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,850 25,900 26,220
USD20 25,850 25,900 26,220
USD1 25,850 25,900 26,220
AUD 16,582 16,732 17,810
EUR 29,397 29,547 30,747
CAD 18,618 18,718 20,048
SGD 19,919 20,069 20,561
JPY 177.53 179.03 183.83
GBP 34,818 34,968 35,785
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,471 0
THB 0 778 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 07/06/2025 20:45