Kịch bản kỳ vọng: GDP cả năm đạt 7%

08:55 | 07/07/2024

28,010 lượt xem
|
(PetroTimes) - "Quý III và IV là các quý động lực của năm, nếu như chỉ mức độ 6,5% thì hoàn toàn khả thi. Chúng ta hoàn toàn có sơ sở để kỳ vọng kết quả cao hơn, vượt mục tiêu Quốc hội đề ra, tăng cao hơn 6,5%", Thứ tưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương thông tin.

Ngày 5/7, tại buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 7/2024, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phưởng đã có những trao đổi với báo giới về kỳ vọng tăng trưởng kinh tế và dự kiến kết quả thu hút FDI 6 tháng còn lại của năm 2024.

Kịch bản kỳ vọng: GDP cả năm đạt 7%
Thứ tưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương

Về kỳ vọng tăng trưởng 6 tháng cuối năm và cả năm 2024, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho hay, theo báo cáo của Bộ trình Chính phủ, kết quả tăng trưởng GDP quý II và 6 tháng đầu năm của năm 2024 là rất tích cực, đặc biệt trong quý II. Đây được đánh giá như là một tăng trưởng đột phá, tạo nền tảng khá tốt để có thể đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 01 của Chính phủ và cũng đúng theo mục tiêu của Nghị quyết 01 là ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng trên nền tảng duy trì kinh tế vĩ mô.

Với kết quả tích cực như vậy, chúng ta rất kỳ vọng vào kết quả tăng trưởng cuối năm 2024 sẽ tốt đẹp hơn. Chính vì vậy trong báo cáo trình Chính phủ, Bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nghiên cứu xây dựng 2 phương án kịch bản để trình Chính phủ, phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành những tháng cuối năm.

Thứ nhất là với kịch bản cơ sở, tức là kịch bản bám sát mục tiêu Quốc hội đề ra, sau kết quả 6 tháng đầu năm thì với mục tiêu tăng 6-6,5%, nếu chúng ta lấy cận trên là 6,5% thì tăng trưởng quý III, IV cũng khoảng 6,5% thôi. Quý III và IV là các quý động lực của năm, nếu như chỉ mức độ 6,5% thì hoàn toàn khả thi. Chúng ta hoàn toàn có sơ sở để kỳ vọng kết quả cao hơn, vượt mục tiêu Quốc hội đề ra, tăng cao hơn 6,5%.

Do vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã tính toán, tham mưu, báo cáo Chính phủ phương án cao hơn, đó là kịch bản 2 với dự kiến cả năm đạt 7%.

Nếu theo phương án này, quý III và IV lần lượt tăng khoảng 7,4-7,6%. Mặc dù trên 7% là mức cao nhưng theo Thứ trưởng Trần Quang Phương, chúng ta hoàn toàn có khả năng phấn đấu được trong bối cảnh chúng ta cố gắng khắc phục các yếu tố hạn chế.

"Như vậy, chúng tôi báo cáo với Chính phủ lựa chọn phương án kịch bản mới, cập nhật so với Nghị quyết 01, tăng trưởng cả năm khoảng 6,5-7%. Trong đó, Bộ KH&ĐT mạnh dạn kiến nghị với Chính phủ đạt mục tiêu phấn đấu cao hơn 7% để có những chỉ đạo quyết liệt hơn, hướng đến mục tiêu này", Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông tin.

Kịch bản kỳ vọng: GDP cả năm đạt 7%
Ảnh minh họa

Xây dựng kịch bản như trên, theo Thứ trưởng Trần Quang Phương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tính đến khoảng 6 nội dung, yếu tố tác động tích cực đến tăng trưởng:

Thứ nhất, xu hướng tăng trưởng tích cực của khu vực và thế giới, chúng ta thường xuyên cập nhật thông tin này.

Thứ hai, động lực để đầu tư bao gồm cả đầu tư của khu vực ngoài nhà nước, đặc biệt là đầu tư FDI, đều tăng trưởng tích cực.

Thứ ba, các động lực về xuất khẩu đã phục hồi và tỉ lệ các doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu tăng lên nhanh chóng. Đây là tín hiệu rất đáng mừng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn gặp phải những khó khăn trong xuất khẩu như chi phí vận tải tăng lên, hay phải điều chuyển tuyến vận tải trên đường biển.

Thứ tư, du lịch phục hồi khá mạnh mẽ. Hiện nay, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đông hơn, mục tiêu chúng ta đặt ra hơn 8 triệu lượt khách trong vòng 6 tháng đầu năm. Chúng ta hoàn toàn có thể hướng tới kỳ vọng năm nay khách du lịch đạt hơn 10 triệu, khoảng 14-15 triệu khách. Đây là yếu tố rất tốt có thể tác động đến khu vực dịch vụ.

Thứ năm, hiện nay, Quốc hội đã thông qua hiệu lực của 3 luật rất quan trọng là Luật Đất đai, Luật Bất động sản và Luật Kinh doanh nhà ở. Ba luật này sẽ có tác động rất lớn đến thị trường bất động sản mà 6 tháng đầu năm là mảng gặp rất nhiều khó khăn. Với các quy định mới thông thoáng hơn và tạo điều kiện hơn, thị trường bất động sản sẽ có tín hiệu khởi sắc trong 6 tháng cuối năm, tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.

Yếu tố thứ sáu là công tác chỉ đạo, điều hành. Hiện nay, chỉ đạo của Chính phủ rất quyết liệt và yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, đặt biệt 4 địa phương là động lực tăng trưởng của nền kinh tế, phải quyết liệt hơn nữa trong việc thúc đẩy mục tiêu tăng trưởng.

Về khả năng thu hút FDI, đến nay, tổng kết lại trong 6 tháng đầu năm, kết quả duy trì ở mức khá. Tổng vốn FDI đăng ký của 6 tháng đạt gần 15,2 tỷ USD, tăng 13,1%. Trong đó, FDI đăng ký mới là hơn 9,5 tỷ USD, tăng 46,9%. Đây là con số đáng lưu ý, bởi vốn đăng ký mới tức là dự án mới vào sẽ gia tăng năng lực sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế.

Vốn FDI thực hiện đạt khoảng 10,8 tỷ USD, tăng 8,2%, cũng là mức tăng trưởng khá. Trong đó cũng có ghi nhận rất nhiều dự án mới, quy mô lớn được đầu tư.

Đối với kỳ vọng của 6 tháng cuối năm thì hiện nay, trong báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ kỳ vọng hết sức lạc quan, không chỉ đánh giá chủ quan của các cơ quan trong nước mà kể cả phía nước ngoài đánh giá.

Đánh giá của các tổ chức tài chính trong và ngoài nước về triển vọng thu hút FDI, xu hướng tích cực vẫn được duy trì nhờ 3 yếu tố hết sức quan trọng:

Một là chiến lược đa dạng hóa thích ứng của các nhà đầu tư. Xu thế này chúng ta đã thực hiện sau COVID, đây cũng là cơ hội để Việt Nam đón nhận vốn đầu tư của thế giới.

Thứ hai là tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ở quý I cho thấy nhiều triển vọng và người ta sẽ kỳ vọng rất nhiều vào nền kinh tế có sức phục hồi lớn đang diễn ra, sẽ là yếu tố tốt để tác động đầu tư.

Cuối cùng là kinh tế vĩ mô ổn định, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là khó khăn từ bên ngoài liên quan đến vấn đề giá cả một số mặt hàng chiến lược trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, chỉ số FDI của chúng ta vẫn ở mức khoảng 4% trong phạm vi mục tiêu Quốc hội đề ra. Chỉ số lạm phát ở mức hơn 2%, cho thấy nền kinh tế vĩ mô của chúng ta ổn định. Đây là điều quan trọng nhà đầu tư rất cần để đầu tư được bảo đảm.

"Điều tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thấy rằng niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài với nền kinh tế của Việt Nam vẫn đang rất tích cực, thể hiện mong muốn được tiếp tục đầu tư ở Việt Nam. Qua đó, chúng ta có thể kỳ vọng thu hút đầu tư vốn FDI cả năm 2024 vẫn cố gắng đạt khoảng 39-40 tỷ USD, tương đương hoặc cao hơn chút so với cùng kỳ năm 2023", Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quang Phương nói.

Hải Anh

Dấu hiệu tích cực cho mục tiêu tăng trưởng năm 2024Dấu hiệu tích cực cho mục tiêu tăng trưởng năm 2024
Ngoại lực của kinh tế Việt NamNgoại lực của kinh tế Việt Nam
6 tháng đầu năm, sản xuất nông nghiệp duy trì đà tăng trưởng6 tháng đầu năm, sản xuất nông nghiệp duy trì đà tăng trưởng
Thị trường bất động sản cuối năm: kỳ vọng có bước tăng trưởng mớiThị trường bất động sản cuối năm: kỳ vọng có bước tăng trưởng mới
Thủ tướng: Phấn đấu tăng trưởng GDP quý III từ 6,5-7%, giữ đà, giữ nhịp phát triển trong năm 2025Thủ tướng: Phấn đấu tăng trưởng GDP quý III từ 6,5-7%, giữ đà, giữ nhịp phát triển trong năm 2025

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 145,300 148,300
Hà Nội - PNJ 145,300 148,300
Đà Nẵng - PNJ 145,300 148,300
Miền Tây - PNJ 145,300 148,300
Tây Nguyên - PNJ 145,300 148,300
Đông Nam Bộ - PNJ 145,300 148,300
Cập nhật: 02/11/2025 05:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,640 14,840
Miếng SJC Nghệ An 14,640 14,840
Miếng SJC Thái Bình 14,640 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,540 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,540 14,840
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,540 14,840
NL 99.99 14,010
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,010
Trang sức 99.9 14,000 14,830
Trang sức 99.99 14,010 14,840
Cập nhật: 02/11/2025 05:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,464 14,842
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,464 14,843
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,436 1,461
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,436 1,462
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,421 1,451
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 139,163 143,663
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,486 108,986
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,328 98,828
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 8,117 8,867
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,252 84,752
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,163 60,663
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,464 1,484
Cập nhật: 02/11/2025 05:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16673 16942 17523
CAD 18245 18521 19133
CHF 32041 32423 33078
CNY 0 3470 3830
EUR 29710 29982 31012
GBP 33781 34170 35106
HKD 0 3254 3457
JPY 164 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14743 15333
SGD 19678 19959 20486
THB 727 790 844
USD (1,2) 26041 0 0
USD (5,10,20) 26082 0 0
USD (50,100) 26111 26130 26347
Cập nhật: 02/11/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,127 26,127 26,347
USD(1-2-5) 25,082 - -
USD(10-20) 25,082 - -
EUR 30,019 30,043 31,184
JPY 167.53 167.83 174.87
GBP 34,185 34,278 35,084
AUD 16,957 17,018 17,458
CAD 18,492 18,551 19,075
CHF 32,485 32,586 33,265
SGD 19,859 19,921 20,537
CNY - 3,652 3,749
HKD 3,335 3,345 3,428
KRW 17.09 17.82 19.14
THB 778.76 788.38 838.64
NZD 14,764 14,901 15,250
SEK - 2,744 2,823
DKK - 4,015 4,132
NOK - 2,575 2,653
LAK - 0.93 1.29
MYR 5,886.01 - 6,598.9
TWD 774.98 - 933.1
SAR - 6,916.67 7,240.37
KWD - 83,665 88,472
CZK 1,065 - 1,527
Cập nhật: 02/11/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,125 26,127 26,347
EUR 29,840 29,960 31,085
GBP 33,987 34,123 35,105
HKD 3,318 3,331 3,439
CHF 32,249 32,379 33,288
JPY 167.11 167.78 174.80
AUD 16,900 16,968 17,517
SGD 19,889 19,969 20,511
THB 792 795 831
CAD 18,468 18,542 19,081
NZD 14,847 15,347
KRW 17.68 19.35
Cập nhật: 02/11/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26173 26173 26347
AUD 16846 16946 17551
CAD 18426 18526 19130
CHF 32395 32425 33312
CNY 0 3663.1 0
CZK 0 1210 0
DKK 0 4100 0
EUR 29988 30018 31040
GBP 34062 34112 35223
HKD 0 3390 0
JPY 167.12 167.62 174.65
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.191 0
MYR 0 6400 0
NOK 0 2600 0
NZD 0 14849 0
PHP 0 423 0
SEK 0 2773 0
SGD 19836 19966 20694
THB 0 758.1 0
TWD 0 855 0
SJC 9999 14640000 14640000 14840000
SBJ 13000000 13000000 14840000
Cập nhật: 02/11/2025 05:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,150 26,200 26,347
USD20 26,153 26,200 26,345
USD1 23,839 26,200 26,347
AUD 16,934 17,034 18,163
EUR 30,165 30,165 31,494
CAD 18,420 18,520 19,840
SGD 19,952 20,102 20,990
JPY 168.24 169.74 174.38
GBP 34,224 34,374 35,163
XAU 14,578,000 0 14,782,000
CNY 0 3,551 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 02/11/2025 05:00