Khẩu AK- M mang số hiệu A 091…

10:00 | 30/04/2013

1,288 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Khẩu AK A091 giờ ở nơi nao? Hải đảo xa xôi hay biên cương địa đầu tổ quốc? Tôi tin rằng, dù đã hơn bốn mươi năm nhưng “bạn” vẫn còn “chạy” tốt - khẩu AK tanh tanh mùi máu của bạn tôi.

Thế hệ chúng tôi, những chiến sĩ đã từng gắn bó với khẩu súng trường AK tự động cuối thời chống Mỹ.

Tháng 7/1975, tại căn cứ Nước Trong (Đồng Nai), tôi được chính trị viên đại đội thông báo ra quân, trở lại trường đại học. Tôi đành phải chia tay với “người bạn” gắn bó với tôi suốt mấy năm trời: Đó là khẩu AK- M mang số hiệu A 091.Vuốt nhẹ từ nòng súng xuống tới báng bằng gỗ thông với những đường vân đẹp mắt, bóng loáng một lớp véc-ni mầu máu sậm đen, tôi trao nó cho một đồng đội khác.

Mùa mưa Quảng Trị năm 1974. Đơn vị bắt đầu hành quân dã ngoại, ráo riết chuẩn bị cho trận đánh lớn. Trước hết, cần phải chỉnh lại những khẩu AK bị va đập quá nhiều trong chiến trận năm 1972. Một nửa cơ số súng được để lại miền Tây chỉnh sửa. Tiểu đoàn cử bốn xạ thủ giỏi nhất thực hiện nhiệm vụ này. Tôi là một trong số bốn tay súng ấy.

Công việc chỉnh súng thật tỷ mỉ, rất mất thời gian, đơn điệu và buồn tẻ. Ngày ngày chúng tôi kéo một chiếc xe ba gác chất đầy súng đạn ra bãi bắn. Ba lính quân khí ngồi cạnh ba xạ thủ nằm sau bệ bắn. Mỗi khẩu AK được làm biên bản, ghi chép khá cẩn thận. Số hiệu, nước sản xuất, đơn vị quản lý. Mỗi xạ thủ bắn liền bốn viên vào bia số 4. Quân khí chọn ba viên chụm nhất nối thành hình tam giác. Họ đo từ trung điểm của tam giác tới hồng tâm. Khoảng cách ấy không được vượt mức cho phép.

 Mi-khai-in Ti-mô-phây-ê-vich (người Nga) là cha đẻ của khẩu súng trường tự động AK 47

Cứ mỗi lần áp má vào báng súng là tôi lại cảm giác như có một luồng điện nhẹ lan khắp cơ thể. Hết khẩu AK này đến khẩu khác với mọi quốc tịch qua tay. Tốt nhất vẫn là những khẩu của Nga. Bắn rất chắc và ổn định. Những khẩu sản xuất từ Trung Quốc lê liền, thường rất dở. Nòng rỗng, không thể chỉnh nổi vì độ tản mát quá lớn. Đôi khi gặp một khẩu báng nhựa của Tiệp Khắc còn dở hơn. Súng quá nhẹ, giật tê cả má.

Một buổi chỉnh súng thường lệ, tôi bỗng nghe thấy tiếng vào sổ, số hiệu khẩu AK- M quen thuộc: A 091…

Ôi! Đích thị là khẩu AK đầy duyên nợ của tôi…

Cuối tháng 8 năm 1972, trong một vườn chuối tả tơi vì bom đạn, Khánh “Voi” ôm khẩu AK- M đứng gác dưới đoạn giao thông hào nông choẹt vừa đào vội đêm qua. Trong chớp mắt, một quả cối 81 biến Khánh thành ma không đầu. Khẩu AK rớt xuống đoạn hào ngập máu.

Chúng tôi cố lau khẩu AK duy nhất của tiểu đội, không sao sạch hết vết máu. Những đường vân gỗ sáng màu trên báng súng cứ sậm dần, sậm dần. Máu đã thấm sâu vào từng thớ gỗ. Càng lau, càng đen bóng một lớp véc-ni mới, véc-ni bằng máu của bạn tôi. Từ đấy, mỗi lần áp má lên báng súng, tôi lại thấy phảng phất mùi mằn mặn, tanh tanh.

Là tiểu đội hỏa lực, thường ở tuyến sau trợ chiến bộ binh, tôi ít có dịp sử dụng khẩu AK ấy. Suốt năm 1972, trận chiến ở Quảng Trị, tôi chỉ bắn súng 12,7 ly các mục tiêu trên không và mặt đất. Có lúc, tôi dùng cả 12,7 ly, khóa tầm, hướng bắn tỉa bộ binh ở cự ly xa, rất hiệu quả. Nhưng có một lần, ở Thanh Hội cuối năm 1972, địch nã pháo suốt đêm, công sự phòng ngự bị cày nham nhở.

Sáng sớm, ba chiếc xe tăng địch chia làm ba mũi tiến đánh các chốt của ta. Đến quá trưa, chốt bộ binh phía trước rơi vào tay địch. Chỉ còn hai chiến sĩ sống sót bò qua khẩu đội tôi. Địch khá gần, không dám bắn 12,7 ly nữa, tôi xách khẩu AK ra bắn tỉa. Một, hai, rồi ba tên… tôi lại ngửi thấy tanh tanh mùi máu. Địch không tiến thêm nữa. Đến đêm, bộ binh tổ chức phản công giành lại chốt.

Sau Hiệp định hòa bình Pari, chúng tôi giữ chốt giáp ranh ven biển Quảng Trị. Khoảng giữa năm 1973, một  chiếc xe Dot của địch bất ngờ vượt qua phòng tuyến của  hai bên. Tiếng súng AK nổ loạn xạ. Tôi lao vào công sự 12,7 ly ngắm chiếc xe, nã một băng đạn. Khói bụi mù mịt không còn quan sát được gì nữa. Vội bỏ khẩu 12,7 ly, tôi xách khẩu AK- M, bắn liền hai điểm xạ. Tôi vẫy Tân “Vịt” chạy ra bãi biển đón đầu xe. Một tên lính từ trên xe nhảy xuống, chạy thục mạng về bên kia hàng rào, để lại chiếc xe lốp bẹp dí và két nước đã bị thủng vì đạn. Tôi thu được một chiếc ba lô quai ngắn màu ô liu.

Hôm sau, Thiếu tướng Cao Văn Khánh ra tận tuyến giáp ranh thị sát. Ông ghé qua khẩu đội 12,7 ly của chúng tôi, hỏi tỷ mỉ mỷ về chiếc xe Dot đã vượt được qua phòng tuyến. Sau khi nghe báo cáo, ông quay sang tiểu đoàn trưởng đi cùng hỏi: “Thế đã thưởng cho khẩu đội này chưa?”. Tiểu đoàn trưởng Thái “Sẹo” ngập ngừng. Tôi thấp thỏm chờ phần thưởng của ông cho đến tận khi rời quân ngũ.

Hai tuần sau, trên báo Quân đội Nhân dân có đăng bài của tác giả Cao Tiến Lê. Ông tả lại sự kiện chiếc xe Dot vượt qua phòng tuyến, tố cáo quân đội VNCH xâm phạm Hiệp định hòa bình. Bài báo dành cho khẩu đội 12,7 ly của tôi đúng năm từ.

Thôi, không sao, chúng tôi tự thưởng bằng năm hộp thịt trong chiếc ba lô chiến lợi phẩm.

Tôi đề nghị anh trợ lý quân khí cho phép được bắn chỉnh khẩu AK- M mang số hiệu A 091. Áp má vào báng súng, mùi tanh tanh quen thuộc, nhanh chóng lấy đường ngắm, tôi bắn liền bốn phát. Đạn rất chụm, điểm gần như tuyệt đối. Một trong số hiếm hoi, những khẩu AK không phải bắn loạt thứ hai. Viên trợ lý quân khí hài lòng: “Giá khẩu nào cũng thế thì quá khỏe”.

Trong gần ba tuần, chúng tôi đã chỉnh xong hơn 300 khẩu AK của tiểu đoàn. Bắn hết một xe cải tiến đạn, làm cháy một vạt rừng. Tôi đã trở thành xạ thủ bắn AK chuyên nghiệp, mọi kỹ năng bắn xung phong và bắn đối kháng, tôi đều quá thuần thục.

Trở về đơn vị, trung đoàn hội thao bắn đạn thật. Đại đội hỏa lực bắn mở màn. Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Giảng tới thao trường động viên các chiến sĩ. Tôi làm nhiệm vụ dẫn bắn ở bệ số hai. Có lẽ muốn “khoe” một chút với cấp trên, đại đội trưởng yêu cầu tôi vào vị trí nằm bắn. Tự tin, xách khẩu AK quen thuộc vào vị trí, tôi hít một hơi thật sâu, nín thở xiết cò, một loạt ba viên trong vòng vài phút. Báo hại thay, chẳng viên nào trúng bia cả. Nhưng lại có tới 6 viên ở bia bệ số 3.

Ôi! tôi đã mắc một lỗi tai hại, quá chủ quan, bắn nhầm bia. Đại đội trưởng đỏ mặt tía tai vì xấu hổ, không giữ nổi bình tĩnh, anh bắt tôi bắn lại ngay lượt tiếp. Lần này thì tôi đã không làm anh thất vọng. Tròn ba mươi điểm. Có thế chứ, anh ném ngay một bao thuốc lá Tam Đảo thưởng nóng cho tôi.

Đầu năm1975, chiến dịch Xuân-Hè, trận Phan Rang, từ trên xe nhảy xuống, bằng động tác thuần thục, tôi đưa mũi súng AK về phía đám lính ngụy ở cự ly rất gần định xiết cò. Nhưng rồi, mũi súng chếch lên trời nổ thị uy. Đám lính ngụy đang vội vàng cởi bỏ quân phục, trốn chạy vào nhà thờ ngay đấy, không một tấc sắt trong tay. Có lẽ chúa đã cứu họ khỏi cái chết trong gang tấc.

Cho đến tận ngày 30/4/1975, tôi không còn dịp nào thực hành những kỹ năng bắn súng đã dày công luyện tập. Mà cũng chẳng tiếc làm gì. Bất đắc dĩ mới phải ngửi cái mùi tanh tanh khó chịu.

Giã từ vũ khí gần bốn chục năm rồi.

Khẩu AK A091 giờ ở nơi nao? Hải đảo xa xôi hay biên cương địa đầu tổ quốc?

Tôi tin rằng, dù đã hơn bốn mươi năm nhưng “bạn” vẫn còn “chạy” tốt - khẩu AK tanh tanh mùi máu của bạn tôi.

 

Nguyễn Như Thìn