Giải pháp nào để sản xuất công nghiệp sớm phục hồi?

18:50 | 04/08/2021

605 lượt xem
|
(PetroTimes) - Thời gian qua, dịch Covid-19 bùng phát mạnh đã ảnh hưởng sâu rộng đến chuỗi cung ứng, sản xuất công nghiệp trên cả nước khiến hàng nghìn doanh nghiệp gặp khó khăn. Bởi vậy, thực hiện các giải pháp để sản xuất công nghiệp có thể nhanh chóng phục hồi, đảm bảo an toàn cho công nhân là việc cấp bách cần làm ngay.

Theo báo cáo từ Bộ Công Thương, hoạt động sản xuất công nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 7/2021 chỉ tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng thấp nhất trong 7 tháng qua. Trong đó, ngành khai khoáng tháng 7 giảm 8%; ngành chế biến, chế tạo tăng 2,9%; sản xuất và phân phối điện tăng 6,7%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,4% so với cùng kỳ.

Giải pháp nào để sản xuất công nghiệp sớm phục hồi?
Chỉ số sản xuất công nghiệp tỉnh Bắc Giang tăng trưởng tốt ngay sau khi vượt qua dịch Covid-19.

Tính trong 7 tháng qua, nhiều ngành nghề có chỉ số sản xuất sụt giảm mạnh. Cụ thể, khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,4%; khai thác than cứng và than non giảm 2,9%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 1,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 15,8%.

Tại các tỉnh, thành phố thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg để phòng chống dịch Covid-19, thống kê từ Bộ Công Thương cho thấy, có 7 địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7 giảm so với cùng kỳ năm trước. Đó là TP Hồ Chí Minh giảm 19,4%; Long An giảm 14,6%; Cà Mau giảm 13,7%; Đồng Tháp giảm 5,7%; Trà Vinh giảm 5,3%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 1,9%; Bến Tre giảm 0,2%.

Theo ông Đào Phan Long - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam (VAMI), việc lưu thông hàng hóa gặp khó, giãn cách xã hội khiến nhiều doanh nghiệp trong ngành chế tạo, sản xuất linh kiện phải ngừng hoặc giảm công suất sản xuất. Hiện có tới 70-80% số doanh nghiệp trong ngành đang khó khăn, đứng trước nguy cơ dừng sản xuất, phá sản; trong đó, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp này không có doanh thu trong suốt nhiều tháng qua và đang hết sức khó khăn.

Cùng với đó, để giữ chân lao động và sản xuất cầm chừng, đáp ứng các đơn hàng đã ký kết, doanh nghiệp còn phải dành phần tài chính cho công tác phòng, chống dịch bệnh. Doanh nghiệp đang rất cần sự hỗ trợ về thuế, phí, các khoản vay ưu đãi sớm để vượt qua khó khăn đại dịch, ông Long cho biết thêm.

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp nằm trong vùng bị phong tỏa, cách ly phải cho người lao động nghỉ việc, giãn việc. Khi doanh nghiệp mở cửa trở lại thì áp lực giao hàng rất lớn, phải bố trí làm ngoài giờ. Để hỗ trợ doanh nghiệp sớm đi vào hoạt động sản xuất, ngoài các nỗ lực về kiểm soát dịch từ các đơn vị, doanh nghiệp thì cũng cần sớm triển khai tiêm vaccine cho người lao động tại các đơn vị, nhà máy…

Ông Đào Phan Long cho biết thêm: “Bộ luật Lao động quy định thời giờ làm thêm không được phép quá 40 giờ trong 1 tháng. Vì vậy, cần cho phép doanh nghiệp sau thời gian phong tỏa được bố trí thời gian làm thêm quá quy định nêu trên để giải quyết các đơn hàng tồn đọng. Doanh nghiệp vẫn sẽ bù trừ các tháng để đảm bảo không quá 300 giờ/năm theo quy định”.

Giải pháp nào để sản xuất công nghiệp sớm phục hồi?
Các chính sách hỗ trợ của nhà nước về tín dụng, thuế cho doanh nghiệp, an sinh xã hội cho người lao động vẫn còn khó tiếp cận.

Đồng tình với ông Long, đại diện Cục Công nghiệp - Bộ Công Thương nhận định, ảnh hưởng của dịch bệnh khiến nhiều doanh nghiệp buộc phải cắt giảm lao động. Điều này sẽ gây khó khăn rất lớn cho việc tìm kiếm nguồn lao động trở lại của doanh nghiệp khi phục hồi sản xuất sau dịch bệnh, đặc biệt là đối với các ngành nghề yêu cầu lao động có tay nghề, chuyên môn nhất định như cơ khí, điện tử… Bên cạnh đó, theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp, các chính sách hỗ trợ của nhà nước về tín dụng, thuế cho doanh nghiệp, an sinh xã hội cho người lao động vẫn còn khó được tiếp cận, chậm triển khai.

Do vậy, để sớm ổn định, duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp, Bộ Công Thương đề nghị các bộ, ngành liên quan cần xem xét cho phép áp dụng linh hoạt quy định về giờ làm thêm trong thời kỳ dịch bệnh. Cụ thể, cho phép doanh nghiệp có thể làm thêm nhiều hơn quy định trong tháng để tạo điều kiện tăng ca sản xuất, bảo đảm kịp tiến độ giao hàng, đặc biệt là đối với những đơn hàng xuất khẩu trong các ngành hàng như dệt may, da giày, điện tử…

Bộ Công Thương cũng đề nghị các bộ ngành rà soát, tham mưu Chính phủ các giải pháp hỗ trợ về tài chính cho các ngành sản xuất; trong đó, xem xét miễn, giảm hoặc gia hạn thời hạn tăng tiền thuê đất, thuê hạ tầng phục vụ sản xuất, kinh doanh. Bộ Tài chính xem xét tiếp tục có các chính sách ân hạn, giãn, hoãn nộp các khoản thuế, phí trong một thời hạn nhất định để hỗ trợ doanh nghiệp, cũng như tiếp tục các chính sách ưu đãi về thuế, phí để kích cầu tiêu dùng trong một số ngành hàng…

Có thể thấy rằng, để sản xuất công nghiệp sớm phục hồi bên cạnh giải pháp quan trọng nhất là ưu tiên tiêm vắc xin Covid-19 cho công nhân tại các khu công nghiệp, cần giám sát chặt chẽ, thúc đẩy mạnh việc thực hiện các gói giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, cần linh hoạt hơn trong các quy định về lao động.

Tùng Dương

IIP giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch Covid-19 IIP giảm mạnh do ảnh hưởng của dịch Covid-19
Việt Nam sẽ có “Khu công nghiệp Dược phẩm” trị giá 500 triệu USD Việt Nam sẽ có “Khu công nghiệp Dược phẩm” trị giá 500 triệu USD
Cơ chế nào cho phát triển công nghiệp phụ trợ? Cơ chế nào cho phát triển công nghiệp phụ trợ?
Linh kiện ô tô nhập khẩu tăng hơn 1 tỷ USD trong hơn tháng qua Linh kiện ô tô nhập khẩu tăng hơn 1 tỷ USD trong hơn tháng qua

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 148,700 151,700
Hà Nội - PNJ 148,700 151,700
Đà Nẵng - PNJ 148,700 151,700
Miền Tây - PNJ 148,700 151,700
Tây Nguyên - PNJ 148,700 151,700
Đông Nam Bộ - PNJ 148,700 151,700
Cập nhật: 26/11/2025 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 15,090 15,290
Miếng SJC Nghệ An 15,090 15,290
Miếng SJC Thái Bình 15,090 15,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,950 15,250
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,950 15,250
NL 99.99 14,230
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,230
Trang sức 99.9 14,540 15,140
Trang sức 99.99 14,550 15,150
Cập nhật: 26/11/2025 02:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,509 15,292
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,509 15,293
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 148 1,505
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 148 1,506
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,465 1,495
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,352 14,802
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 104,786 112,286
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,432 10,182
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 83,854 91,354
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 79,817 87,317
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,998 62,498
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,509 1,529
Cập nhật: 26/11/2025 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16499 16767 17345
CAD 18147 18423 19038
CHF 31918 32299 32941
CNY 0 3470 3830
EUR 29777 30049 31077
GBP 33826 34215 35141
HKD 0 3260 3462
JPY 161 166 172
KRW 0 16 18
NZD 0 14471 15058
SGD 19703 19984 20508
THB 731 794 848
USD (1,2) 26103 0 0
USD (5,10,20) 26145 0 0
USD (50,100) 26173 26193 26403
Cập nhật: 26/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,183 26,183 26,403
USD(1-2-5) 25,136 - -
USD(10-20) 25,136 - -
EUR 30,014 30,038 31,175
JPY 165.61 165.91 172.86
GBP 34,215 34,308 35,106
AUD 16,780 16,841 17,286
CAD 18,385 18,444 18,966
CHF 32,308 32,408 33,078
SGD 19,858 19,920 20,539
CNY - 3,671 3,768
HKD 3,339 3,349 3,432
KRW 16.64 17.35 18.63
THB 780.33 789.97 841.1
NZD 14,485 14,619 14,967
SEK - 2,718 2,797
DKK - 4,014 4,130
NOK - 2,537 2,611
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,970.93 - 6,697.25
TWD 759.77 - 914.16
SAR - 6,932.04 7,256.31
KWD - 83,806 88,590
Cập nhật: 26/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,183 26,403
EUR 29,808 29,928 31,060
GBP 33,948 34,084 35,051
HKD 3,321 3,334 3,441
CHF 32,047 32,176 33,065
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,715 16,782 17,318
SGD 19,863 19,943 20,483
THB 793 796 831
CAD 18,352 18,426 18,959
NZD 14,564 15,072
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 26/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26079 26079 26403
AUD 16682 16782 17705
CAD 18331 18431 19444
CHF 32176 32206 33792
CNY 0 3685.7 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29965 29995 31718
GBP 34129 34179 35940
HKD 0 3390 0
JPY 165.27 165.77 176.29
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14583 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19867 19997 20725
THB 0 760.7 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 15090000 15090000 15290000
SBJ 13000000 13000000 15290000
Cập nhật: 26/11/2025 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,198 26,248 26,403
USD20 26,198 26,248 26,403
USD1 26,198 26,248 26,403
AUD 16,726 16,826 17,935
EUR 30,113 30,113 31,227
CAD 18,278 18,378 19,689
SGD 19,930 20,080 20,646
JPY 165.69 167.19 171.76
GBP 34,203 34,353 35,126
XAU 15,088,000 0 15,292,000
CNY 0 3,567 0
THB 0 795 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 26/11/2025 02:00