Giá vàng hôm nay 18/7: Lạm phát có thể đẩy giá vàng lên 1.900 USD

07:11 | 18/07/2021

420 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Tăng trưởng kinh tế toàn cầu có dấu hiệu hụt hơi, lạm phát gia tăng... là 2 nhân tố chính được kỳ vọng sẽ đẩy giá vàng tuần tới đi lên sau khi mất giá mạnh trong phiên giao dịch cuối tuần, ngày 16/7.

Giá vàng thế giới bước vào tuần giao dịch từ ngày 12/7 với xu hướng giảm nhẹ khi mà triển vọng phục hồi kinh tế vẫn được đánh giá tích cực trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp. Điều này đã thúc đẩy nhà đầu tư đẩy mạnh dòng tiền vào các tài sản rủi ro với tâm lý lướt sóng khi mà các thị trường chứng khoán, dầu thô và đồng Bitcoin giảm mạnh.

Giá vàng hôm nay 18/7: Lạm phát có thể đẩy giá vàng lên 1.900 USD
Ảnh minh hoạ

Ghi nhận đầu giờ sáng ngày 12/7, theo giờ Việt Nam, giá vàng giao ngay đứng ở mức 1.807,80 USD/Ounce, trong khi giá vàng thế giới giao tháng 9/2021 ghi nhận trên sàn Comex thuộc New York Mercantile Exchanghe ở mức 1.809,2 USD/Ounce.

Tuy nhiên, khi mà những yếu tố rủi ro về lạm phát, dịch bệnh, căng thẳng địa chính trị, thương mại có dấu hiệu gia tăng, giá vàng đã quay đầu đi lên.

Theo dữ liệu được công bố, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 của Mỹ là 5,4%, vượt xa các con số dự báo được đưa ra trước đó, và là mức tăng cao nhất trong 13 năm gần đây, kể từ tháng 8/2008, thời điểm trước cuộc khủng tài chính. Và nếu loại đi giá thực phẩm và năng lượng, CPI lõi tháng 6/2021 của Mỹ đã tăng 4,5% vượt xa mức dự báo tăng 3,8% và là mức tăng cao nhất kể từ tháng 9/1991.

Will Rhind, Giám đốc điều hành của GraniteShares, nhận định rằng, nếu lạm phát Mỹ tiếp tục có chiều hướng gia tăng và không hạ nhiệt vào cuối năm nay, giá vàng có thể dễ dàng đạt mức 2.000 USD/Ounce trước khi bước sang năm 2022.

Việc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc bắt ngờ thực hiện nới lỏng chính sách được xem là một dấu hiệu cho thấy tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc bắt đầu xuất hiện những lực cản, thách thức mới.

Sau thời gian được kiểm soát tốt, dịch Covid-19 đã tái bùng phát mạnh tại một loạt các quốc gia châu Âu và Mỹ, đe doạ tiền trình phục hồi kinh tế. Trong khi đó, căng thẳng thương mại Mỹ - Trung lại đang có dấu hiệu gia tăng khi Mỹ liên tiếp các công ty và quan chức vào danh sách trừng phạt bất chấp sự phản ứng gay gắt từ phía Trung Quốc.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng ngày 16/7, theo giờ Việt Nam, giá vàng giao ngay đứng ở mức 1.831,23 USD/Ounce, trong khi giá vàng thế giới giao tháng 9/2021 ghi nhận trên sàn Comex thuộc New York Mercantile Exchanghe ở mức 1.830,2 USD/Ounce.

Tuy nhiên, trong phiên giao dịch cuối tuần, đồng USD phục hồi và lợi suất trái phiếu Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng trở lại, nhu cầu vàng yếu, giá vàng đã quay đầu giảm mạnh. Giới phân tích tin rằng việc FED khẳng định quan điểm sẽ tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng chỉ là động thái trấn an dư luận bởi có một thực tế, lạm phát của Mỹ đang tăng ở mức kỷ lục trong 13 năm trở lại đây và chưa cho thấy dấu hiệu chậm lại.

Khép tuần giao dịch, giá vàng ngày 18/7 ghi nhận giá vàng giao ngay đứng ở mức 1.812,25 USD/Ounce, giảm khoảng 19 USD/Ounce, trong khi giá vàng thế giới giao tháng 9/2021 ghi nhận trên sàn Comex thuộc New York Mercantile Exchanghe ở mức 1.813,2 USD/Ounce, giảm 16,2 USD/Ounce trong phiên.

Tại thị trường trong nước, theo diễn biến của giá vàng thế giới, giá vàng SJC trong nước tuần qua cũng biến động mạnh. Chốt tuần giao dịch, giá vàng hôm nay ghi nhận giá vàng 9999 hiện được niêm yết tại TP Hồ Chí Minh đứng ở mức 56,85 – 57,50 triệu đồng/lượng (mua vào/bán ra). Trong khi đó, giá vàng miếng SJC được Tập đoàn DOJI niêm yết tại Hà Nội ở mức 56,80 – 57,45 triệu đồng/lượng. Còn tại Phú Quý SJC, giá vàng 9999 được niêm yết tại Hà Nội ở mức 56,85 – 57,45 triệu đồng/lượng. Cùng thời điểm, giá vàng SJC được Bảo Tín Minh Châu niêm yết ở mức 56,87 – 57,44 triệu đồng/lượng.

Mặc dù mất giá mạnh trong phiên giao dịch cuối tuần, nhưng theo nhận định của giới chuyên gia, thị trường đang xuất hiện những lực đẩy mới hỗ trợ giá vàng tuần tới tăng mạnh, có thể lên mức 1.850 USD/Ounce. Lạm phát gia tăng, dịch bệnh diễn biến phức tạp, căng thẳng thương mại leo thang... là những nhân tố được chỉ ra sẽ tạo động lực giúp kim loại quý đi lên.

Theo kết quả khảo sát xu hướng giá vàng hàng tuần của Kitco, trong 16 nhà phân tích Phố Wall tham gia khảo sát thì có tới 9 người cho rằng giá vàng tăng, 3 người cho rằng giá vàng giảm và 4 người nhận định giá vàng đi ngang.

Trong khi đó, với 836 phiếu khảo sát trong các cuộc thăm dò trực tuyến của Main Street thì có tới 556 người được hỏi nhận định giá vàng tăng, 114 cho rằng giá vàng giảm và chỉ có 136 ý kiến nhận định giá vàng đi ngang.

Giám đốc điều hành tại Bannockburn Global Forex, ông Marc Chandler, khi đưa nhận định về giá vàng đã cho rằng, giá vàng đã đạt đỉnh nhưng ông hy vọng có đủ động lực để kim loại quý này kiểm tra lại mức kháng cự 1850 USD/Oune trong thời gian tới.

Còn theo Adam Button, chiến lược gia tiền tệ chính tại Forexlive.com, rủi ro kinh tế tiềm ẩn sẽ tiếp tục hỗ trợ giá vàng cao hơn.

Adam Button phân tích: Bức tranh cơ bản của vàng đang bị nhầm lẫn bởi các tín hiệu khác nhau từ Fed, lạm phát và biến thể Delta Covi-19, nhưng các chỉ số kỹ thuật đang ngày càng hướng đến lãi suất thấp hơn trong thời gian dài hơn. Đối với vàng, điều đó là tích cực và nó có thể lên đến mức 1900 USD/Ounce.

Minh Ngọc

Tài sản chứng khoán giới siêu giàu Việt Tài sản chứng khoán giới siêu giàu Việt "bốc hơi" chóng mặt trong 10 ngày
Chứng khoán thăng hoa rồi đỏ lửa, bật mí bí kíp 3 gạch đầu dòng cho các F0Chứng khoán thăng hoa rồi đỏ lửa, bật mí bí kíp 3 gạch đầu dòng cho các F0
Chứng khoán đỏ lửa suốt tuần, gần 500.000 tỷ đồng Chứng khoán đỏ lửa suốt tuần, gần 500.000 tỷ đồng "bốc hơi"
"Tay to" hành động ra sao khi chứng khoán bị bán tháo mạnh nhất lịch sử?
Giới đầu tư tái mặt vì bán tháo, VN-Index thủng mốc 1.300 điểmGiới đầu tư tái mặt vì bán tháo, VN-Index thủng mốc 1.300 điểm

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 75,200 ▲800K 76,300 ▲700K
Nguyên liệu 999 - HN 75,100 ▲800K 76,200 ▲700K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 19/04/2024 09:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 75.100 ▲300K 77.100 ▲300K
TPHCM - SJC 81.900 ▼200K 83.900 ▼200K
Hà Nội - PNJ 75.100 ▲300K 77.100 ▲300K
Hà Nội - SJC 81.900 ▼200K 83.900 ▼200K
Đà Nẵng - PNJ 75.100 ▲300K 77.100 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 81.900 ▼200K 83.900 ▼200K
Miền Tây - PNJ 75.100 ▲300K 77.100 ▲300K
Miền Tây - SJC 81.800 ▼300K 83.800 ▼300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 75.100 ▲300K 77.100 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 81.900 ▼200K 83.900 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 75.100 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 81.900 ▼200K 83.900 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 75.100 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 75.000 ▲300K 75.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.600 ▲220K 57.000 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 43.090 ▲170K 44.490 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.280 ▲120K 31.680 ▲120K
Cập nhật: 19/04/2024 09:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,505 ▲70K 7,720 ▲70K
Trang sức 99.9 7,495 ▲70K 7,710 ▲70K
NL 99.99 7,500 ▲70K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,480 ▲70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,570 ▲70K 7,750 ▲70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,570 ▲70K 7,750 ▲70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,570 ▲70K 7,750 ▲70K
Miếng SJC Thái Bình 8,220 ▲10K 8,410 ▲10K
Miếng SJC Nghệ An 8,220 ▲10K 8,410 ▲10K
Miếng SJC Hà Nội 8,220 ▲10K 8,410 ▲10K
Cập nhật: 19/04/2024 09:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 ▼300K 83,800 ▼300K
SJC 5c 81,800 ▼300K 83,820 ▼300K
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 ▼300K 83,830 ▼300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 75,000 ▲300K 76,900 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 75,000 ▲300K 77,000 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 74,900 ▲300K 76,200 ▲300K
Nữ Trang 99% 73,446 ▲297K 75,446 ▲297K
Nữ Trang 68% 49,471 ▲204K 51,971 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 29,429 ▲126K 31,929 ▲126K
Cập nhật: 19/04/2024 09:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,848.44 16,008.53 16,523.99
CAD 18,002.36 18,184.20 18,769.72
CHF 27,268.74 27,544.18 28,431.08
CNY 3,443.73 3,478.52 3,591.07
DKK - 3,558.91 3,695.62
EUR 26,352.90 26,619.09 27,801.05
GBP 30,791.76 31,102.78 32,104.27
HKD 3,166.76 3,198.75 3,301.74
INR - 303.56 315.74
JPY 159.84 161.45 169.19
KRW 15.86 17.62 19.22
KWD - 82,319.95 85,620.80
MYR - 5,260.81 5,376.16
NOK - 2,253.01 2,348.94
RUB - 258.21 285.88
SAR - 6,765.81 7,037.11
SEK - 2,265.27 2,361.72
SGD 18,183.16 18,366.83 18,958.22
THB 610.27 678.08 704.12
USD 25,103.00 25,133.00 25,473.00
Cập nhật: 19/04/2024 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,965 16,065 16,515
CAD 18,208 18,308 18,858
CHF 27,648 27,753 28,553
CNY - 3,477 3,587
DKK - 3,573 3,703
EUR #26,568 26,603 27,863
GBP 31,185 31,235 32,195
HKD 3,177 3,192 3,327
JPY 161.98 161.98 169.93
KRW 16.49 17.29 20.09
LAK - 0.9 1.26
NOK - 2,257 2,337
NZD 14,676 14,726 15,243
SEK - 2,259 2,369
SGD 18,195 18,295 19,025
THB 637.25 681.59 705.25
USD #25,197 25,197 25,473
Cập nhật: 19/04/2024 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,100.00 25,120.00 25,440.00
EUR 26,325.00 26,431.00 27,607.00
GBP 30,757.00 30,943.00 31,897.00
HKD 3,164.00 3,177.00 3,280.00
CHF 27,183.00 27,292.00 28,129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15,911.00 15,975.00 16,463.00
SGD 18,186.00 18,259.00 18,792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17,956.00 18,028.00 18,551.00
NZD 14,666.00 15,158.00
KRW 17.43 19.02
Cập nhật: 19/04/2024 09:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25270 25320 25472
AUD 16040 16090 16495
CAD 18274 18324 18725
CHF 27826 27876 28288
CNY 0 3482.7 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26797 26847 27357
GBP 31403 31453 31913
HKD 0 3115 0
JPY 163.2 163.7 168.23
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0392 0
MYR 0 5400 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14751 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18498 18498 18859
THB 0 650.4 0
TWD 0 777 0
XAU 8200000 8200000 8400000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 19/04/2024 09:45