Điều kiện về nhập máy móc cũ: Không nên cấm cả gói!

07:05 | 31/03/2015

1,136 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Quy định pháp luật liên quan đến điều kiện nhập máy móc thiết bị cũ trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp. Để tiết kiệm chi phí đầu tư rất nhiều doanh nghiệp đã và đang chọn nhập máy móc, dây chuyền công nghệ cũ về sử dụng.

Năng lượng Mới số 408

Thông tư 20 quy định về việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng được Bộ Khoa học Công nghệ (KHCN) ban hành, có hiệu lực thi hành ngày 1/9/2014. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện gặp nhiều vướng mắc nên Thủ tướng Chính phủ đã cho tạm dừng thực hiện Thông tư này. Hiện nay, Bộ KHCN đang tiếp tục lấy ý kiến doanh nghiệp với mục tiêu hoàn thiện thông tư phù hợp hơn với tình hình thực tế.

Với những quy định trong dự thảo thông tư mới được đưa ra, các doanh nghiệp cho là quá cứng nhắc, không phù hợp với tình hình thực tiễn, không những không giảm tình trạng nhập máy móc kém chất lượng mà còn phát sinh thêm thủ tục và chi phí hành chính, chi phí “bôi trơn” cho doanh nghiệp.

Hải quan kiểm tra máy móc nhập khẩu

Chủ tịch Hiệp hội In Việt Nam Nguyễn Văn Dòng lý giải, với ngành in, những loại máy in truyền thống như in offset, in ống đồng, in Flexo… thì 20 năm hoặc hơn vẫn rất tốt nếu là máy của CHLB Đức, Nhật Bản, Mỹ, Italia… nên nếu cứ quy định nhập máy móc trong niên hạn 10 năm thì rất khó tìm mua trên thế giới, trừ các công ty bị phá sản muốn thanh lý.

Là một doanh nghiệp có nhiều năm trong lĩnh vực in ấn, Công ty Bao bì Đoàn Kết bày tỏ sự đồng tình với những ý kiến của Hiệp hội In đưa ra. Giám đốc công ty, bà Hoàng Thu Hương chia sẻ: Máy in cơ bản chỉ là sản phẩm cơ khí, nhiều tính năng tự động cũng như không có yếu tố gây tổn hại đến môi trường khi sử dụng công nghệ cũ. Trên thế giới có Đức và Nhật Bản sở hữu công nghệ in và chế tạo máy in hàng đầu hiện nay. Máy móc của 2 nước này sản xuất có thể sử dụng được trên dưới 30 năm và được cả thế giới sử dụng. Ngay tại Mỹ, có rất nhiều máy in của Nhật Bản được sản xuất từ những năm 80 của thế kỷ trước nay vẫn chạy tốt, chỉ cần trung tu, đại tu là chạy như mới. Rất nhiều loại như thế đã và đang được sử dụng tại Việt Nam trong lĩnh vực in ấn.

Cũng theo bà Hương, doanh nghiệp thà mua máy cũ từ Đức, Nhật còn hơn mua máy mới từ Trung Quốc - giá đắt gấp đôi mà chất lượng thì thua xa. Quy định tại Điều 8, bắt buộc máy móc phải đi qua cơ quan giám định độc lập thực chất cũng chỉ là hình thức và mệnh lệnh, gây phiền hà thêm cho doanh nghiệp: “Người giám định tốt nhất là người bỏ tiền ra mua máy đó. Chẳng ai dại gì bỏ một đống tiền để mua một sản phẩm không sử dụng tốt và không xứng đáng với tiền mình bỏ ra”.

Với việc thẩm định tại cảng như trong thông tư nêu lên, các doanh nghiệp bày tỏ, liệu cơ quan, chuyên gia đăng kiểm nào của Việt Nam có thể có đủ năng lực, móc móc, thiết bị để có thể khẳng định rằng số máy móc thiết bị cần kiểm tra có đạt chất lượng tối thiểu 80%; hay đó chỉ là cái cớ, là điều kiện để phát sinh tiêu cực, nhũng nhiễu, gây khó khăn thêm cho doanh nghiệp nhập khẩu về thời gian, tiền bạc. Bên cạnh đó, tại cảng, máy được đóng trong container nên các doanh nghiệp không thể có điều kiện để đóng điện vận hành kiểm tra. Do đó việc giám định chất lượng tại cảng chắc chắn chỉ mang tính chất đối phó.

Ở một góc nhìn khác, doanh nghiệp có lý do để sử dụng máy cũ để tiết kiệm chi phí, đặc biệt là các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường.

Thành Nghĩa là công ty có nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực dệt len, chủ yếu gia công cho các đối tác đến từ Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trao đổi với phóng viên, chủ doanh nghiệp cho biết: Với mảng dệt len nói riêng và ngành dệt may nói chung, việc nhập máy móc, thiết bị cũ là điều “cực chẳng đã”, ai có điều kiện vốn tốt sẽ chẳng dại gì đi nhập hàng đã sử dụng”. Lấy ví dụ, một chiếc máy dệt cũ của Đức hoặc Nhật sau khoảng 5 năm sử dụng có giá khoảng 35-50 ngàn USD và với hàng Trung Quốc thì con số này chỉ chưa đến một nửa. Tuy nhiên, những chiếc máy xuất xứ từ Đức và Nhật có thể sử dụng thêm cả chục năm nữa mới hết công nghệ và trong suốt những năm đó thì việc sản phẩm lỗi do máy móc là con số vô cùng nhỏ. Ngược lại, một chiếc máy cũ của Trung Quốc chỉ có thể sử dụng vài ba năm là tối đa, sản phẩm lỗi lớn, sau đó thì còn nước bán... sắt vụn!

Cũng theo chủ doanh nghiệp Thành Nghĩa, đối với các công ty quy mô nhỏ, hoặc mới gia nhập thị trường, việc đầu tư cả chục tỉ bạc cho máy Đức, Nhật là điều vô cùng khó khăn. Họ đành chọn cách nhập hàng cũ của Trung Quốc, chỉ sau đôi ba “vụ” là có thể thu hồi vốn, gắng thêm dăm năm nữa là sắm được máy “xịn”. Dệt kim nói chung là công nghệ không có gì thay đổi sau nhiều năm, có chăng chỉ là tiết kiệm điện hơn, máy móc nhỏ gọn hơn. Còn bảo máy cũ thì không ra được sản phẩm tốt, sản phẩm công nghệ mới thì không phải. Máy móc cũ theo một ý nghĩa nào đó, chính là nền móng, hay bậc thang để các doanh nghiệp mới vươn lên trong thị trường nhiều cạnh tranh.

Có thể thấy hai vướng mắc chính của Thông tư 20 là thiếu những cơ sở thực thi, kiểm định chất lượng máy móc. Cho tới thời điểm này Bộ KHCN vẫn chưa nêu rõ cơ quan nào được phép giám định dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng. Bởi vì trên thực tế việc thẩm định một dây chuyền công nghệ được cho là “cũ người mới ta” tại Việt Nam cũng là điều không đơn giản. Mặt khác, với những dây chuyền công nghệ khép kín đã qua sử dụng của những tập đoàn viễn thông, chế tạo ôtô, xe máy lớn trên thế giới như: Samsung, Microsoft, Toyata… thì chắc chắn không có cơ quan nào đủ năng lực để giám định.

Bộ trưởng Bộ KHCN Nguyễn Quân cũng từng thừa nhận, mạng lưới cơ quan thẩm định của chúng ta hiện nay chưa đáp ứng được cả về lượng và về chất. Mà theo Bộ KHCN là khi ký ban hành Thông tư 20 trước đây chưa có sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành nên khi Thông tư có hiệu lực mà chưa có bộ ngành nào chỉ định được tổ chức giám định.

Với lập luận này của Bộ KHCN, các doanh nghiệp cho rằng, nếu đề ra tiêu chí chất lượng thì nên soạn thảo Bộ tiêu chuẩn chất lượng Quốc gia để căn cứ vào đó mà kiểm định chứ không thể phó mặc tất cả cho các cơ quan giám định. 

Đáp lại những bức xúc của cộng đồng doanh nghiệp, đại diện Bộ KHCN - ông Đỗ Hoài Nam, Vụ trưởng Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định Công nghệ,  nêu quan điểm của Bộ khi soạn thảo Thông tư 20 này là tránh tình trạng doanh nghiệp nhập những máy móc thiết bị quá cũ, lạc hậu đang diễn ra trong nhiều năm qua.

Đồng ý là không được phép biến Việt Nam thành “bãi rác công nghệ” bằng việc hạn chế nhập khẩu công nghệ, máy móc quá cũ. Tuy nhiên là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu nhập máy móc đã qua sử dụng nhưng chất lượng phù hợp là một nhu cầu thực tế, cấp bách của doanh nghiệp. Mong rằng Bộ KHCN sẽ xem xét và có phương hướng điều chỉnh hợp lý trước khi ban hành Thông tư để vừa đảm bảo về mặt quản lý Nhà nước vừa đảm bảo cho sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp.

 Mai Phương - Bảo Sơn

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,500 ▼2500K 118,200 ▼1800K
AVPL/SJC HCM 115,500 ▼2500K 118,200 ▼1800K
AVPL/SJC ĐN 115,500 ▼2500K 118,200 ▼1800K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,770 ▼200K 11,100 ▼150K
Nguyên liệu 999 - HN 10,760 ▼200K 11,090 ▼150K
Cập nhật: 15/05/2025 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
TPHCM - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Hà Nội - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Hà Nội - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Đà Nẵng - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Đà Nẵng - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Miền Tây - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Miền Tây - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Giá vàng nữ trang - PNJ 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 110.500 ▼2500K
Giá vàng nữ trang - SJC 115.500 ▼2500K 118.200 ▼1800K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 110.500 ▼2500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 110.500 ▼2500K 113.500 ▼2000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 110.500 ▼2300K 113.000 ▼2300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 110.390 ▼2300K 112.890 ▼2300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 109.700 ▼2280K 112.200 ▼2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 109.470 ▼2280K 111.970 ▼2280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 77.400 ▼1730K 84.900 ▼1730K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.760 ▼1340K 66.260 ▼1340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.660 ▼960K 47.160 ▼960K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.110 ▼2110K 103.610 ▼2110K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 61.580 ▼1400K 69.080 ▼1400K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.100 ▼1500K 73.600 ▼1500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 69.490 ▼1560K 76.990 ▼1560K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.030 ▼860K 42.530 ▼860K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.940 ▼760K 37.440 ▼760K
Cập nhật: 15/05/2025 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,840 ▼250K 11,290 ▼250K
Trang sức 99.9 10,830 ▼250K 11,280 ▼250K
NL 99.99 10,400 ▼350K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,400 ▼350K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 ▼250K 11,350 ▼250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 ▼250K 11,350 ▼250K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 ▼250K 11,350 ▼250K
Miếng SJC Thái Bình 11,550 ▼250K 11,820 ▼180K
Miếng SJC Nghệ An 11,550 ▼250K 11,820 ▼180K
Miếng SJC Hà Nội 11,550 ▼250K 11,820 ▼180K
Cập nhật: 15/05/2025 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16124 16391 16973
CAD 18016 18291 18906
CHF 30347 30722 31354
CNY 0 3358 3600
EUR 28433 28700 29727
GBP 33655 34044 34975
HKD 0 3190 3392
JPY 171 175 181
KRW 0 17 19
NZD 0 14966 15551
SGD 19447 19727 20243
THB 694 757 810
USD (1,2) 25673 0 0
USD (5,10,20) 25711 0 0
USD (50,100) 25739 25773 26113
Cập nhật: 15/05/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,750 25,750 26,110
USD(1-2-5) 24,720 - -
USD(10-20) 24,720 - -
GBP 34,003 34,095 35,006
HKD 3,262 3,271 3,371
CHF 30,472 30,567 31,418
JPY 174.21 174.52 182.31
THB 740.67 749.81 801.77
AUD 16,439 16,498 16,942
CAD 18,293 18,352 18,847
SGD 19,625 19,686 20,307
SEK - 2,624 2,715
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,830 3,963
NOK - 2,455 2,541
CNY - 3,558 3,655
RUB - - -
NZD 14,967 15,106 15,546
KRW 17.23 17.97 19.31
EUR 28,621 28,643 29,863
TWD 776.47 - 939.46
MYR 5,655.61 - 6,380.11
SAR - 6,797.05 7,154.54
KWD - 82,095 87,292
XAU - - -
Cập nhật: 15/05/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,750 25,760 26,100
EUR 28,442 28,556 29,659
GBP 33,804 33,940 34,910
HKD 3,257 3,270 3,376
CHF 30,302 30,424 31,321
JPY 173.12 173.82 181
AUD 16,357 16,423 16,953
SGD 19,607 19,686 20,224
THB 756 759 792
CAD 18,237 18,310 18,819
NZD 15,053 15,560
KRW 17.68 19.49
Cập nhật: 15/05/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25753 25753 26113
AUD 16289 16389 16956
CAD 18197 18297 18850
CHF 30550 30580 31468
CNY 0 3561.3 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28698 28798 29573
GBP 33949 33999 35120
HKD 0 3270 0
JPY 174.18 175.18 181.71
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15059 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19581 19711 20443
THB 0 721.7 0
TWD 0 845 0
XAU 11600000 11600000 11800000
XBJ 10500000 10500000 11800000
Cập nhật: 15/05/2025 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,750 25,800 26,135
USD20 25,750 25,800 26,135
USD1 25,750 25,800 26,135
AUD 16,380 16,530 17,598
EUR 28,785 28,935 30,110
CAD 18,138 18,238 19,558
SGD 19,668 19,818 20,300
JPY 174.96 176.46 181.11
GBP 34,058 34,208 34,995
XAU 11,548,000 0 11,822,000
CNY 0 3,446 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/05/2025 19:00