Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2014):

Điểm tựa trên đường ra trận

15:54 | 25/04/2014

1,036 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đã bước qua độ tuổi tám mươi nhưng vợ chồng ông Nguyễn Đức Lộc và bà Trần Thị Ảnh vẫn còn nhớ như in những tháng ngày gian khổ và niềm hạnh phúc trên chiến trường Tây Bắc 60 năm về trước. Tình yêu thời tuổi trẻ của hai cụ thật giản dị nồng ấm được nhen lên trong cao trào con gái con trai làng Đỏ quê mình (nay là phường Hưng Dũng, TP Vinh, Nghệ An) khấp khởi hành quân đường lên Điện Biên. Để rồi tình yêu của hai cụ đằm thắm qua những tháng năm dài đánh thắng giặc Mỹ xâm lược cho tới hôm nay.

Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ, hai cụ dường như trẻ lại khi nhắc đến những năm tháng không thể nào quên. Cụ ông hào hứng: “Vốn ở cùng xóm,  cùng làng, cùng sinh hoạt Đội thiếu niên Cứu Quốc, rồi Đoàn thanh niên Cứu Quốc; chúng tôi sớm có tình cảm gần gũi với nhau, lại được gia đình hai bên và bạn bè vun vén nên ngày càng quyến luyến. Năm 1952, tôi nhập ngũ. Buổi lên đường trai gái trong làng đến tiễn đưa đông vui lắm. Bà ấy khẽ  dúi vào tay tôi mấy đồng bạc, nói trong hơi thở bị dồn nén: “Anh đi chân cứng đá mềm, nhớ gửi thư về!..”. Trong tim tôi, lời dặn dò của bà ấy đã trở thành lời hẹn ước”.

Vợ chồng ông Lộc- bà Ảnh nét mặt rạng ngời khi kể chuyện chiến trường Điện Biên

Hơn một năm kể từ ngày nhập ngũ, ông Lộc không nhận được một bức thư nào của người yêu, cho dù ông thường xuyên biên thư về.  Chặng đường hành quân vô cùng gian nan, vất vả và hiểm nguy nhưng ánh mắt và lời dặn dò của người yêu đã trở thành động lực hơn một tháng trời, chân phồng rộp, vai bầm tím, đơn vị của ông Nguyễn Đức Lộc đến được đất Phú Thọ. Từ Phú Thọ, lại tiếp tục hành quân và chiến đấu khắp các chiến trường ở vùng Tây Bắc và Thượng Lào. Nhớ nhà, nhớ người thương nhưng chặng đường hành quân dằng dặc, chiến đấu liên miên nên nỗi niềm riêng tư đành gác lại.

Một hôm, vào khoảng tháng 4/1953, đơn vị tôi trên đường hành quân, dừng chân nghỉ lại ở một vùng rừng núi huyện Mộc Châu (tỉnh Sơn La). Trên địa bàn có một Đại đội TNXP và một đơn vị công binh của Đại đoàn 351 đang mở đường để phục vụ Chiến dịch Thượng Lào. Dù vất vả, mệt nhọc nhưng các chiến sĩ rất vui. Ai cũng tranh thủ đi tìm đồng hương để hỏi thăm tình hình quê nhà. Tôi bước vào một lán của chị em TNXP và cất tiếng hỏi: “Ở đây có ai người Nghệ An không?”. Chị em đáp lại: “Có chứ, nhiều vô kể”.

Nhận ra giọng nói, nhận ra đồng hương, mọi người vui mừng khôn tả. Tôi đưa mắt nhìn khắp lán và bất chợt gặp ánh mắt và khuôn mặt thân thương của người mình yêu. Niềm vui đến quá bất ngờ nhưng hai người vẫn cố gắng kìm nén nỗi xúc động và niềm vui sướng. Nắm chặt tay đứng lặng nhìn nhau, tôi mới được nghe từng lời của cô ấy như bị dồn nén bấy lâu nay: “Thế là em đã được gặp anh trên đường ra trận. Anh lên đường được mấy tháng, nhân có đợt tuyển TNXP đi phục vụ chiến trường, em liền xung phong gia nhập với mong muốn góp sức mình cùng anh đánh đuổi giặc Pháp”. 

Cụ bà Trần Thị Ảnh không giấu nổi niềm hạnh phúc xen lẫn niềm tụ hào: “Ngày ấy tôi là Trung đội trưởng thuộc Đại đội TNXP Cù Chính Lan (một trong những đơn vị TNXP đầu tiên của tỉnh Nghệ An). Niềm mong ước được gặp người yêu nhiều hơn càng trở nên mãnh liệt khi tin đơn vị mình sẽ hành quân lên Tây Bắc làm nhiệm vụ phá núi, mở đường phục vụ chiến dịch. Và niềm mong ước, hy vọng ấy đã trở thành sự thật khi đơn vị của tôi đang mở đường phục vụ chiến dịch Thượng Lào thì đơn vị của ông hành quân qua. Phút gặp gỡ mừng mừng tủi tủi. Hai chúng tôi trao cho nhau hết chuyện ở nhà rồi đến chuyện công tác trên mặt trận. Ông ấy hầu như đứng lặng, không nói nhiều. Nhìn đôi bàn chân ông ấy chai sần bám đất, tôi xót lòng hỏi: “Răng anh lại đi chân đất?”.

Niềm vui đoàn tụ của gia đình ông Nguyễn Đức Lộc

Ông ấy bảo: “Lội suối ban đêm, nước cuốn mất dép rồi!”. Tôi liền cởi chiếc dép cao su làm từ lốp xe đạp thồ trao cho người yêu: “Anh đi tạm đôi dép của em. Hành quân xa, chân đất đi răng được. Bạn em có người mang theo 2 đôi, em sẽ mượn, anh đừng lo...”. Cụ ông vội lấy chiếc khăn mỏng chấm vội lên khóe mắt răn reo của mình cho tôi biết trong niềm xúc động trào dâng: “…đôi dép ấy đã trở thành kỷ vật, một kỷ vật “bất ly thân” trên đường hành quân ra trận. Sau cuộc gặp gỡ, mỗi người lại theo một ngả, đơn vị ông hành quân về phía biên giới Việt- Lào mở đường cho đại quân của ta tiến sang giải phóng Xiêng Khoảng, Sầm Nưa, còn đơn vị của bà tiếp tục xuôi theo hướng Mộc Châu. Mỗi người một nơi nhưng thỉnh thoảng vẫn “bắt” được tin nhau và động viên nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ”.

Hoàn thành nhiệm vụ trên đất bạn Lào, đơn vị công binh của ông được giao nhiệm vụ trở về bám trụ ở bến phà Tạ Khoa trên sông Đà. Đây là một địa điểm quan trọng trên đường tiến về giải phóng Điện Biên nên thường xuyên bị địch đánh phá ác liệt hòng cắt đứt đường hành quân và tiếp tế từ hậu phương ra tiền tuyến của ta. Tiểu đội của ông được giao lập đài quan sát theo dõi hoạt động của địch và rà phá các loại bom, mìn do chúng ném xuống sông Đà. Lúc này, ông hay tin Trung đội TNXP của bà vẫn đang hoạt động ở Mộc Châu và lập được nhiều thành tích, riêng Trung đội trưởng Trần Thị Ảnh vinh dự được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng Bằng khen. Và bộ đội công binh, TNXP đang ra sức thi đua  đảm bảo giao thông cho một chiến dịch quan trọng, mang tính quyết định là chiến dịch Điện Biên Phủ. Thi đua với người yêu, người lính công binh Nguyễn Đức Lộc luôn xung phong vào những nơi khó khăn, gian khổ nhất để đoàn quân ta tiến bước được an toàn, thông suốt, góp phần làm nên chiến thắng. Kết thúc Chiến dịch Điện Biên Phủ, binh chủng công binh được Bác Hồ tuyên dương, tặng cờ thêu 4 chữ vàng: “Mở đường thắng lợi”. Ông Lộc rất đỗi vui mừng vì đã góp phần làm nên thành tích ấy để  có dịp “khoe” với người yêu.

Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình được lập lại trên miền Bắc, người lính công binh được nghỉ phép để về quê tính chuyện hạnh phúc gia đình. Đám cưới của hai người tuy đơn sơ, giản dị nhưng rất đỗi hạnh phúc và đầm ấm. Cưới vợ xong, người lính trẻ Nguyễn Đức Lộc lại tiếp tục trở về đơn vị đang đóng quân ở Bắc Ninh. Sau đó, ông được cử sang Liên Xô học chuyên ngành Bảo vệ an ninh (1961-1964). Về nước, được phân công về phòng Bảo vệ Quân khu 4 và đến năm 1968 ông có tên trong danh sách đội quân chi viện cho Chiến trường Quảng Trị. Tại vùng “đất lửa” này, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa một lần nữa lại trực tiếp đối mặt với quân thù và chiến đấu gan dạ, dũng cảm, được bình bầu là Chiến sĩ thi đua, được trao tặng danh hiệu Dũng sĩ quyết thắng. Năm 1971, ông bị thương phải ra điều trị ở Bệnh viện Quân khu 4 rồi chuyển công tác về Cục Chính trị, Cục Hậu cần và Cục Kinh tế Quân khu. Đến năm 1978, sau gần 30 năm sống cuộc đời quân ngũ, ông Nguyễn Đức Lộc được nghỉ hưu với quân hàm Thiếu tá, chính thức được trở về với gia đình.

Sau khi cưới, bà Trần Thị Ảnh ở nhà tích cực tham gia công tác xã hội, được giao phụ trách Hội Phụ nữ 3 xã gồm Hưng Hòa, Hưng Lộc và Hưng Dũng. Bà Ảnh lúc bấy giờ được phân công làm Trung đội trưởng Đội đắp đê Hưng Hòa (1955). Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ bà tích cực tham gia tiếp ứng, giúp đỡ các đơn vị chiến đấu bảo vệ thị xã Vinh, cáng thương binh về các bệnh viện để cứu chữa. Để nuôi đàn con nhỏ, bà phải tranh thủ cày ruộng, nuôi lợn gà, cắt cỏ bán để kiếm tiền mua gạo. Vì thế, trong 10 năm liền bà luôn được bình bầu danh hiệu Phụ nữ đảm đang. 

Giờ đây, những gian nan, vất vả và sóng gió của cuộc đời đã đi qua, ông Lộc - bà Ảnh đang sống những năm tháng tuổi già vui vẻ, đầm ấm trên mảnh đất quê hương. Niềm vui lớn nhất của ông bà là 4 người con đều trưởng thành và sống có ích cho xã hội, có người đã về hưu với quân hàm Đại tá, có người đang giữ chức vụ Phó giám đốc một công ty. Các cháu nội, ngoại nhiều người đã vào đại học và nhận công tác, luôn hướng về truyền thống gia đình, quê hương để làm “điểm tựa”. Những ngày này, ông bà thường kể về những câu chuyện ngày xưa ở chiến trường Tây Bắc - Điện Biên, dù đã lùi xa 60 năm nhưng vẫn vẹn nguyên trong ký ức.

Công Kiên