Covid-19 gợi bóng ma khủng hoảng toàn cầu

21:24 | 25/03/2020

249 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Khi dòng vốn tháo chạy, những quốc gia được xếp vào danh sách các thị trường mới nổi sẽ hứng chịu cú sốc kinh tế nặng nề nhất vì Covid-19.

Tại thủ đô New Delhi, Ấn Độ, Shagun, 45 tuổi, ngồi bên đường cắt chuối, dưa chuột và đu đủ để bán cho những người lái xe ba bánh chở khách. Vì lượng hàng bán được đã giảm một nửa, mỗi bữa ăn của gia đình cô chỉ gồm cơm và đậu lăng giá rẻ nhất. Cô cũng pha thêm nước vào sữa cho các con.

"Chồng tôi thất nghiệp. Tôi không có tiền tiết kiệm. Chúng tôi không thể bỏ sạp hàng ven đường này, chúng tôi đang cầm cự chỉ với một bữa ăn mỗi ngày", cô chia sẻ.

Covid-19 gợi bóng ma khủng hoảng toàn cầu
Nhân viên y tế phun chất khử khuẩn ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Ảnh: AP.

Ở Buenos Aires, tài xế taxi Alejandro Anibal Alonso, 53 tuổi, uể oải đi chậm trên những con phố vắng tanh tìm khách hàng với nỗi lo sợ rằng ông có thể nhiễm nCoV. Nhưng nỗi sợ mất chiếc xe vì thế chấp cho ngân hàng còn lớn hơn.

Hai năm trước, ông vay tiền để mua xe chạy taxi. Lãi suất thay đổi theo lạm phát. Khi Argentina chìm sâu vào khủng hoảng, số tiền mỗi tháng ông cần trả tăng từ 7.800 peso (hơn 122 USD) lên 25.000 peso (gần 393 USD).

Đủ tiền trả lãi tháng đã là thách thức tuyệt vọng đối với Alonso. Ông đã chậm thanh toán tháng hai và hiện cũng không có tiền trả cho tháng ba. Tuần trước, chủ nợ gửi cho Alonso một email đe dọa: "Tiền thanh toán không thể dừng lại vì nCoV".

"Tôi không biết phải làm gì nữa", ông nói. "Vấn đề hiện nay vượt quá khả năng ứng phó của tôi". Ông nén nỗi sợ virus lại, chấp nhận tới sân bay đón khách. "Tôi không thể từ chối bất kỳ cuốc xe nào", Alonso cho hay.

Khi đại dịch Covid-19 làm nền kinh tế toàn cầu đình trệ, những quốc gia dễ bị tổn thương nhất thế giới đang hứng chịu thiệt hại nghiêm trọng. Các doanh nghiệp phải sa thải nhân viên vì doanh số lao dốc. Các hộ gia đình phải tằn tiện chi tiêu vì thu nhập sụt giảm. Đầu tư quốc tế đang rời khỏi những thị trường với mới nổi với tốc độ chưa từng thấy từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, làm giảm giá trị đồng tiền và khiến người dân phải trả nhiều hơn cho những mặt hàng nhập khẩu như thực phẩm hay nhiên liệu.

"Tình hình hiện nay sẽ tồi tệ ngang bằng, thậm chí tệ hơn cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đối với những thị trường mới nổi", Per Hammarlund, chiến lược gia tại ngân hàng đầu tư toàn cầu SEB Group, trụ sở ở Stockholm, Thụy Điển, nhận định. "Thật sự nghiệt ngã".

Covid-19 cũng tạo ra mối đe dọa với thịnh vượng toàn cầu. Các thị trường mới nổi chiếm 60% nền kinh tế thế giới trên cơ sở sức mua, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Sự giảm tốc ở các quốc gia đang phát triển sẽ kéo theo sự giảm tốc toàn cầu.

Từ Nam Á đến châu Phi và châu Mỹ Latin, Covid-19 đang đặt ra thách thức với các quốc gia đang phát triển cả về y tế lẫn kinh tế. Tình trạng này cũng xảy ra ở những quốc gia giàu có, nhưng ở các nước nghèo, nơi hàng tỷ người phải chạy ăn từng bữa, nguy cơ càng lớn hơn.

Nhiều chính phủ chịu gánh nặng bởi những khoản nợ lớn, làm hạn chế khả năng giúp đỡ những người khó khăn. Từ năm 2007, nợ công và nợ tư nhân tại các thị trường mới nổi đã tăng từ 70% sản lượng kinh tế hàng năm lên 165%, theo Oxford Economics.

Đại dịch còn đẩy đầu tư quốc tế chệch khỏi các thị trường mới nổi và hướng tới những "điểm trú ẩn" an toàn hơn như trái phiếu chính phủ Mỹ.

Năm ngoái, hơn 20 thị trường mới nổi, trong đó có Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi và Brazil, đã nhận được dòng vốn đầu tư khoảng 79 tỷ USD, theo Viện Tài chính Quốc tế (IIF). Nhưng trong hai tháng qua, khoảng 70 tỷ USD đầu tư ròng đã rời khỏi các quốc gia này.

Sự thay đổi đó làm dấy lên lo ngại rằng một số quốc gia có thể bị mất khả năng thanh toán và vỡ nợ, đặc biệt là Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi.

"Tốc độ thật đáng kinh ngạc", Sergi Lanau, chuyên gia kinh tế tại IIF, bình luận. "Tất cả những quốc gia dễ bị tổn thương sẽ đối mặt với tình huống thực sự khó khăn".

Hầu hết các nhà kinh tế học đều cho rằng một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đang chuẩn bị diễn ra.

Tại các thiên đường du lịch như Thái Lan, Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, những biện pháp phong tỏa chống dịch được áp dụng với quy mô toàn cầu có nguy cơ gây thất nghiệp hàng loạt trong ngành khách sạn, nhà hàng và tổ chức tour.

Covid-19 gợi bóng ma khủng hoảng toàn cầu
Một con đường vốn tập trung đông người ngắm hoàng hôn ở Vịnh Manila giờ đây trở nên vắng lặng. Ảnh: NYTimes.

Tình trạng gián đoạn hoạt động của ngành công nghiệp trên toàn thế giới đã cắt giảm mạnh nhu cầu đối với nguyên liệu, giáng đòn chí mạng vào những nhà sản xuất đồng như Chile, Peru, Congo và Zambia, hay các nhà sản xuất kẽm như Brazil và Ấn Độ.

Mexico vốn đã rơi vào suy thoái và nhiều ngành nghề tại nước này phục vụ cho sản xuất hàng hóa vào Mỹ. Nhưng Mỹ giờ đây cũng gần như bị phong tỏa để chống Covid-19.

Tại những quốc gia giàu có, chính phủ và ngân hàng trung ương đã tung ra các gói cứu trợ trị giá hàng nghìn tỷ USD nhằm hạn chế thiệt hại đối với nền kinh tế khi người dân bị hạn chế ra khỏi nhà. Nhưng ở những nước nghèo, cách biệt cộng đồng gần như bất khả thi. Những người kiếm sống bằng nghề thu gom phế liệu tại bãi rác sẽ không thể duy trì cuộc sống nếu bị buộc ở nhà.

Ấn Độ, quốc gia với 1,3 tỷ dân, dường như đã lĩnh đòn của Covid-19 dù số ca nhiễm chưa quá cao. Thủ tướng Narendra Modi hôm 24/3 ban bố lệnh phong tỏa toàn quốc nhằm ngăn chặn virus lây lan.

Một buổi chiều gần đây trên con đường dẫn tới ga xe lửa chính của New Delhi, các chủ cửa hàng ven đường đang đối diện sự thật phũ phàng: Đường phố vắng tanh.

Mahender, 60 tuổi, làm nghề đánh giày. Trước dịch, ông kiếm được khoảng 400 rupee (khoảng 5 USD) mỗi ngày. Bây giờ, ông chỉ kiếm được 1,25 USD, bằng 1/4 trước đây.

Covid-19 gợi bóng ma khủng hoảng toàn cầu
Một nhà ga xe lửa ở thủ đô New Delhi, Ấn Độ. Ảnh: Reuters.

Tại Cappadocia, Thổ Nhĩ Kỳ, khu thắng cảnh với những khối đá hình chóp nhọn kỳ vĩ, Deniz Turgut, 37 tuổi, đồng sở hữu công ty Butterfly Balloons, đang chật vật khi chi phí vẫn phải trả nhưng doanh thu thì bé lại từng ngày.

Năm ngoái, công ty đưa khoảng 20.000 khách du ngoạn trên khinh khí cầu. Hồi tháng hai, Butterfly Balloons chỉ có 43 khách, ít hơn cả số nhân viên công ty (49 người). Turgut phải miễn cưỡng cho nhân viên nghỉ việc.

"Chúng tôi không biết tình trạng này sẽ kéo dài bao lâu", cô nói.

Tại Istanbul, Gürsel Yenilmez, 42 tuổi, tuần trước đóng cửa quán cà phê ở quận Beyoglu. Cơ sở của anh không đủ khả năng trả lãi ngân hàng, tiền thuê nhà và hóa đơn điện điện nước. Yenilmez cũng hủy đơn đặt hàng ôliu và dầu ôliu tại vùng nông thôn Thổ Nhĩ Kỳ.

"Tôi không thể mua bất cứ thứ gì từ họ mà trả tiền ngay lập tức", anh cho biết.

Tại Manila, Philippines, Reynaldo Tating, 57 tuổi, đang phải chịu đựng một kỳ nghỉ không mong muốn tại nhà.

Ông thường dành 8 tháng một năm trên những con tàu du thuyền đi khắp thế giới, pha chế cocktail cho khách du lịch quốc tế. Giờ đây, ông lo lắng công ty của mình, một nhà điều hành du thuyền lớn, có thể phá sản.

"Tôi không biết mình có được quay lại làm việc không hay liệu chung tôi còn có việc mà làm không nữa", ông chia sẻ.

Theo VNE

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,650 83,650
AVPL/SJC HCM 81,700 83,700
AVPL/SJC ĐN 81,700 83,700
Nguyên liệu 9999 - HN 75,000 76,100
Nguyên liệu 999 - HN 74,900 76,000
AVPL/SJC Cần Thơ 81,650 83,650
Cập nhật: 20/04/2024 01:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 74.800 76.800
TPHCM - SJC 81.800 83.800
Hà Nội - PNJ 74.800 76.800
Hà Nội - SJC 81.800 83.800
Đà Nẵng - PNJ 74.800 76.800
Đà Nẵng - SJC 81.800 83.800
Miền Tây - PNJ 74.800 76.800
Miền Tây - SJC 82.000 83.800
Giá vàng nữ trang - PNJ 74.800 76.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 81.800 83.800
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 74.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 74.700 75.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 55.380 56.780
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.920 44.320
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 30.160 31.560
Cập nhật: 20/04/2024 01:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,465 7,670
Trang sức 99.9 7,455 7,660
NL 99.99 7,460
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,440
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,530 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,530 7,700
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,530 7,700
Miếng SJC Thái Bình 8,190 8,370
Miếng SJC Nghệ An 8,190 8,370
Miếng SJC Hà Nội 8,190 8,370
Cập nhật: 20/04/2024 01:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 81,800 83,800
SJC 5c 81,800 83,820
SJC 2c, 1C, 5 phân 81,800 83,830
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 74,800 76,700
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 74,800 76,800
Nữ Trang 99.99% 74,700 76,000
Nữ Trang 99% 73,248 75,248
Nữ Trang 68% 49,335 51,835
Nữ Trang 41.7% 29,345 31,845
Cập nhật: 20/04/2024 01:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,781.47 15,940.87 16,452.24
CAD 17,962.12 18,143.56 18,725.59
CHF 27,431.25 27,708.34 28,597.19
CNY 3,438.94 3,473.67 3,585.64
DKK - 3,552.42 3,688.45
EUR 26,307.40 26,573.13 27,749.81
GBP 30,708.07 31,018.25 32,013.29
HKD 3,165.97 3,197.95 3,300.53
INR - 302.93 315.05
JPY 160.50 162.12 169.87
KRW 15.82 17.58 19.18
KWD - 82,281.90 85,571.24
MYR - 5,255.57 5,370.18
NOK - 2,249.33 2,344.82
RUB - 257.39 284.93
SAR - 6,760.49 7,030.75
SEK - 2,259.94 2,355.88
SGD 18,152.89 18,336.25 18,924.46
THB 609.62 677.36 703.30
USD 25,133.00 25,163.00 25,473.00
Cập nhật: 20/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,981 16,001 16,601
CAD 18,171 18,181 18,881
CHF 27,422 27,442 28,392
CNY - 3,442 3,582
DKK - 3,537 3,707
EUR #26,203 26,413 27,703
GBP 30,917 30,927 32,097
HKD 3,116 3,126 3,321
JPY 160.29 160.44 169.99
KRW 16.24 16.44 20.24
LAK - 0.7 1.4
NOK - 2,224 2,344
NZD 14,703 14,713 15,293
SEK - 2,249 2,384
SGD 18,106 18,116 18,916
THB 637 677 705
USD #25,150 25,150 25,473
Cập nhật: 20/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,170.00 25,172.00 25,472.00
EUR 26,456.00 26,562.00 27,742.00
GBP 30,871.00 31,057.00 32,013.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,292.00
CHF 27,361.00 27,471.00 28,313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15,933.00 15,997.00 16,486.00
SGD 18,272.00 18,345.00 18,880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18,092.00 18,165.00 18,691.00
NZD 14,693.00 15,186.00
KRW 17.52 19.13
Cập nhật: 20/04/2024 01:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25245 25295 25470
AUD 16131 16181 16583
CAD 18297 18347 18753
CHF 27805 27855 28267
CNY 0 3479 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26851 26901 27412
GBP 31459 31509 31976
HKD 0 3140 0
JPY 162.71 163.21 167.75
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.3 0
LAK 0 1.0396 0
MYR 0 5440 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14795 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18528 18528 18889
THB 0 649.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8370000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 20/04/2024 01:02