Chưa cần chiến tranh thương mại, kinh tế Trung Quốc đã rạn nứt

21:12 | 25/09/2018

371 lượt xem
|
Khối nợ tăng, đầu tư giảm, dân số già đã là thách thức với nền kinh tế lớn nhì thế giới trong vài năm gần đây. 

Vài tháng gần đây, khi căng thẳng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới ngày càng trầm trọng, các nhà phân tích đều tập trung vào việc phân tích ảnh hưởng của thuế nhập khẩu lên nền kinh tế Trung Quốc. Một số cho rằng đây sẽ là đòn giáng mạnh vào gã khổng lồ Đông Á. Số khác lại khẳng định Trung Quốc sẽ vượt qua các rào cản do Mỹ dựng lên.

Dù vậy, nhiều nhà quan sát Trung Quốc lâu năm cho rằng luận điểm này đã bỏ qua điều quan trọng nhất. Đó là những lực đẩy, xu hướng quan trọng nhất tác động đến Trung Quốc hiện tại không nằm ở thuế nhập khẩu.

Đầu tư giảm sút, vay nợ tăng lên

Trung Quốc từ lâu đã dựa vào đầu tư cơ sở hạ tầng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đầu tư đóng góp 44% GDP danh nghĩa của nước này tháng 12/2017. Tỷ lệ này tại các nước như Mỹ, Nhật Bản hay Đức chỉ vào khoảng 10 - 25%, theo số liệu của CEIC.

Chưa cần chiến tranh thương mại, kinh tế Trung Quốc đã rạn nứt
Biển quảng cáo bên ngoài một cửa hàng bán đồ nhập khẩu tại Sơn Đông (Trung Quốc). Ảnh: Reuters

Dù vậy, đầu tư vào tài sản cố định của Trung Quốc đang giảm tốc. Hồi tháng 8, tăng trưởng đầu tư đã xuống thấp kỷ lục. Các nhà kinh tế học thì cho rằng thế giới không nên quá chú trọng vào con số này, do Trung Quốc đang điều chỉnh cách tính đầu tư vào tài sản cố định.

Tuy nhiên, khi căng thẳng thương mại leo thang, Chính phủ Trung Quốc sẽ khó dùng chi tiêu công để thúc đẩy đầu tư, do khối nợ đang tăng cao. Nền kinh tế lớn nhì thế giới từng có mức nợ tương đối ổn định cho đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Năm đó, họ đã dùng số nợ tương đương 12,5% GDP để thúc đẩy nền kinh tế.

Trung Quốc từng khuyến khích đi vay để đẩy cao tăng trưởng. Năm 2016, các nhà băng nước này cho vay kỷ lục 12.650 tỷ NDT (1.880 tỷ USD).

Sự bùng nổ tín dụng này đã làm dấy lên lo ngại về rủi ro tài chính. Vì vậy, năm 2017, giới chức Trung Quốc cam kết sẽ kiềm chế nợ.

Kể từ đó, nợ trên GDP của nước này đã tăng chậm lại, hiện tương đương 250% GDP, tức là khoảng 28.000 tỷ USD, theo số liệu của DBS và CEIC. Tuy nhiên, Viện Kinh tế Quốc tế cho rằng tỷ lệ này phải lên hơn 300% GDP.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) từng đưa ra cảnh báo về kinh tế Trung Quốc năm 2017, rằng tăng trưởng dựa trên vay nợ không phải là giải pháp bền vững. Giới chức Trung Quốc cũng đã cố gắng kiềm chế khối nợ đang tăng. Hồi tháng 4, các ngân hàng quốc doanh đã nhận chỉ thị ngừng cho các chính quyền địa phương vay.

Tuy nhiên, khi chiến tranh thương mại kéo dài, Trung Quốc có vẻ sẽ lại dùng đầu tư để thúc đẩy kinh tế lần nữa. Ủy ban Cải tổ và Phát triển Quốc gia Trung Quốc (NDRC) đầu tháng này cũng thông báo có kế hoạch khuyến khích đầu tư vào cơ sở hạ tầng.

Dân số già đi, đánh cược vào tiêu dùng

Trung Quốc đang nỗ lực cải thiện năng suất lao động thông qua tự động hóa và robot. Tuy nhiên, dân số già đi đang tác động tiêu cực lên nền kinh tế này.

“Xu hướng dân số có thể khiến tăng trưởng GDP hàng năm của các nước như Trung Quốc hay Nhật Bản mất hơn 0,5% - 1% trong 3 thập kỷ tới”, IMF dự báo trong báo cáo năm 2017.

Chính sách một con của Trung Quốc đã chấm dứt năm 2016. Các cặp vợ chồng giờ được hạn chế sinh hai con. Tuy nhiên, hàng thập kỷ áp dụng chính sách này đã khiến tỷ lệ sinh ở đây giảm đáng kể. Cùng với việc dân số già đi và lực lượng lao động co lại, tỷ lệ sinh giảm đang ảnh hưởng đến xu hướng tiêu dùng tại đây.

Việc này càng đáng ngại khi Trung Quốc đang chuyển hướng tăng trưởng sang dựa vào tiêu dùng. Các số liệu gần đây thì lại cho kết quả trái chiều. Doanh số bán lẻ hàng tháng tăng chậm lại. Nhưng tiêu dùng hàng quý, tính cả giáo dục và du lịch, lại đang tăng.

Số liệu tại các đại gia thương mại điện tử Trung Quốc cũng vậy. Quý II/2018, doanh thu Alibaba tăng hơn 60% so với năm ngoái. Trong khi đó, con số này của đối thủ JD.com lại chậm lại.

Hôm qua (24/9), Mỹ và Trung Quốc tiếp tục áp thuế nhập khẩu lên hàng trăm tỷ USD hàng hóa của nhau. Căng thẳng thương mại được dự báo có thể khiến tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc mất 0,2% năm nay và 0,3% năm tới, theo một khảo sát tháng này của Bloomberg. Nền kinh tế lớn nhì thế giới cũng được dự báo tăng trưởng 6,3% năm nay, thấp hơn so với 6,6% năm ngoái.

Theo VnExpress.net

Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung: "Cơ hội cho Việt Nam là có nhưng không phải quá lớn"
Mỹ tự tin trong cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, không hẹn ngày đàm phán lại
Việt Nam chịu ảnh hưởng gì từ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
CEO Jack Ma: “Alibaba sẽ không tạo 1 triệu việc làm tại Mỹ nữa”

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Hà Nội - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Đà Nẵng - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Miền Tây - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Tây Nguyên - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Đông Nam Bộ - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Cập nhật: 05/11/2025 20:45
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,550 ▼70K 14,750 ▼70K
Miếng SJC Nghệ An 14,550 ▼70K 14,750 ▼70K
Miếng SJC Thái Bình 14,550 ▼70K 14,750 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,450 ▼70K 14,750 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,450 ▼70K 14,750 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,450 ▼70K 14,750 ▼70K
NL 99.99 13,780 ▼70K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,780 ▼70K
Trang sức 99.9 14,040 ▲200K 14,640 ▼170K
Trang sức 99.99 14,050 ▲200K 14,650 ▼170K
Cập nhật: 05/11/2025 20:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,455 ▼7K 14,752 ▼70K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,455 ▼7K 14,753 ▼70K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,427 ▼7K 1,452 ▼7K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,427 ▼7K 1,453 ▲1307K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,412 ▼7K 1,442 ▼7K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,272 ▼693K 142,772 ▼693K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 100,811 ▼525K 108,311 ▼525K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 90,716 ▼476K 98,216 ▼476K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,621 ▼427K 88,121 ▼427K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,727 ▼408K 84,227 ▼408K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,787 ▼292K 60,287 ▼292K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Cập nhật: 05/11/2025 20:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16526 16795 17369
CAD 18100 18375 18989
CHF 31820 32201 32845
CNY 0 3470 3830
EUR 29595 29866 30892
GBP 33511 33898 34830
HKD 0 3254 3456
JPY 164 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14550 15136
SGD 19601 19882 20402
THB 724 787 841
USD (1,2) 26057 0 0
USD (5,10,20) 26098 0 0
USD (50,100) 26127 26146 26351
Cập nhật: 05/11/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,131 26,131 26,351
USD(1-2-5) 25,086 - -
USD(10-20) 25,086 - -
EUR 29,843 29,867 31,001
JPY 168.25 168.55 175.58
GBP 33,902 33,994 34,787
AUD 16,847 16,908 17,347
CAD 18,356 18,415 18,940
CHF 32,234 32,334 33,011
SGD 19,761 19,822 20,441
CNY - 3,646 3,743
HKD 3,335 3,345 3,427
KRW 16.81 17.53 18.86
THB 773.44 782.99 833.15
NZD 14,598 14,734 15,082
SEK - 2,709 2,787
DKK - 3,994 4,109
NOK - 2,542 2,616
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,883.54 - 6,599.25
TWD 770.79 - 927.44
SAR - 6,920 7,243.82
KWD - 83,601 88,404
Cập nhật: 05/11/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,130 26,131 26,351
EUR 29,630 29,749 30,877
GBP 33,620 33,755 34,731
HKD 3,317 3,330 3,437
CHF 31,917 32,045 32,947
JPY 167.83 168.50 175.58
AUD 16,682 16,749 17,295
SGD 19,764 19,843 20,380
THB 786 789 824
CAD 18,304 18,378 18,909
NZD 14,584 15,081
KRW 17.45 19.07
Cập nhật: 05/11/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26169 26169 26351
AUD 16705 16805 17738
CAD 18280 18380 19394
CHF 32057 32087 33673
CNY 0 3657.5 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29769 29799 31525
GBP 33804 33854 35615
HKD 0 3390 0
JPY 167.76 168.26 178.77
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14660 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19755 19885 20613
THB 0 753.8 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14550000 14550000 14750000
SBJ 13000000 13000000 14750000
Cập nhật: 05/11/2025 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,149 26,199 26,351
USD20 26,149 26,199 26,351
USD1 26,149 26,199 26,351
AUD 16,778 16,878 17,991
EUR 29,933 29,933 31,250
CAD 18,250 18,350 19,657
SGD 19,832 19,982 20,510
JPY 168.44 169.94 174.53
GBP 33,859 34,009 35,050
XAU 14,498,000 0 14,702,000
CNY 0 3,542 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 05/11/2025 20:45