Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2018: Nhiều khả năng đạt mức tăng trưởng hơn 10%

09:46 | 18/10/2018

765 lượt xem
|
(PetroTimes) - Chiều ngày 17/10, tại Hà Nội, tại cuộc họp báo thường kỳ do Bộ Công Thương tổ chức, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải đã nhấn mạnh ngành công nghiệp Việt Nam nhiều khả năng sẽ đạt mức tăng trưởng hơn 10% trong năm 2018.

Sản xuất công nghiệp được mở rộng và gia tăng liên tục. Tăng trưởng sản xuất công nghiệp duy trì được đà tăng trưởng, với mức tăng khá cao, đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP chung của cả nền kinh tế.

Trong đó, Chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành (IIP) 9 tháng đầu năm 2018 tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng tích cực, tháng sau cao hơn tháng trước. Cụ thể, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 9 ước tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 2,7%; ngành chế biến, chế tạo tăng 11,2%; sản xuất và phân phối điện tăng 5,1%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,4%.

chi so san xuat cong nghiep nam 2018 nhieu kha nang dat muc tang truong hon 10
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải chủ trì họp báo.

Tính chung 9 tháng năm 2018, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 12,7%; quý II tăng 8,2%; quý III tăng 10,7%), đạt mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2012 trở lại đây, qua đó đóng góp lớn vào tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao, là điểm sáng dẫn dắt tăng trưởng chung của toàn ngành với mức tăng12,9% (quý I tăng 15,7%; quý II tăng 9,6%; quý III tăng 13,2%), đóng góp 9,9 điểm phần trăm vào mức tăng chung, đây là mức tăng cao nhất của ngành này trong nhiều năm qua; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,7%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 2% (chủ yếu do khai thác dầu thô giảm).

Đáng chú ý, tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tuy thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2017 nhưng cao hơn nhiều so với mức tăng 9 tháng các năm 2012-2016. Trong khi đó, ngành công nghiệp khai khoáng vẫn tăng trưởng âm (giảm 1,97%), làm giảm 0,14 điểm phần trăm mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế nhưng mức giảm đã được thu hẹp đáng kể so với mức giảm 8,08% của cùng kỳ năm trước.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 9 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 53,1%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 25,9%; sản xuất kim loại tăng 18,2%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 14,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 14,8%; sản xuất dệt tăng 13%... Đặc biệt là, các ngành trên đều có mức tăng rất tích cực (tăng cao hơn mức tăng bình quân 12,9% của nhóm công nghiệp chế biến chế tạo).

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 9 tháng đầu năm 2018 tăng cao so với cùng kỳ năm trước: alumin tăng 105,7%; than sạch tăng 10,1%; sắt, thép thô tăng 36,6%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 25,3%; xăng dầu các loại tăng 47,6% chủ yếu do đóng góp của Công ty TNHH Lọc hóa dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa); vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 19,9%; tivi tăng 26,5%; ôtô tăng 16%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: điện thoại di động giảm 2,8%; phân urê giảm 5,8%; dầu thô khai thác giảm 10,2%; động cơ diezen giảm 32,2%.

Tình hình sản xuất của một số ngành như nhóm ngành khai khoáng vẫn gặp khó khăn. Chỉ số sản xuất của ngành trong tháng 9 giảm 2,7%; tính chung 9 tháng, tốc độ tăng trưởng của ngành giảm 2 % so với cùng kỳ năm 2017.

Đối với khai thác dầu thô và khí, công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí tiếp tục được triển khai theo kế hoạch đề ra. Sản lượng khai thác dầu thô tháng 9 đạt 1,1 triệu tấn, tính chung 9 tháng đầu năm ước đạt 10,5 triệu tấn, giảm 10,2% so với cùng kỳ, vượt 5,3% so với kế hoạch 9 tháng và bằng 79,8% kế hoạch năm (trong đó: khai thác dầu ở trong nước 9 tháng đạt 9,09 triệu tấn, vượt 5,6% - tương đương vượt 490 nghìn tấn so với kế hoạch 9 tháng; ở nước ngoài 9 tháng ước đạt 1,47 triệu tấn, vượt 3,0% kế hoạch 9 tháng).

Trong 9 tháng đầu năm 2018, ngành cơ bản hoàn thành các nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Hiện trạng khai thác của các mỏ 9 tháng đầu năm đúng với dự kiến. Do đó, dự báo sản lượng dầu khí sẽ vượt mục tiêu kế hoạch Chính phủ giao trong năm 2018. Trong đó:

Dự kiến, sản lượng khai thác dầu thô cả năm 2018 đạt 13,68 triệu tấn, vượt 450 nghìn tấn (tương đương 3,4%) kế hoạch năm. Trong đó, khai thác dầu thô trong nước ước đạt 11,76 triệu tấn, vượt 450 nghìn tấn (tương đương 4%) so với kế hoạch Chính phủ giao.

Về khai thác khí: Sản lượng khai thác khí đốt thiên nhiên 9 tháng đầu năm đạt khoảng 7,4 tỷ m3, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2017. Dự kiến cả năm sản lượng khai thác khí ước đạt 10 tỷ m3, vượt 400 triệu m3 (tương đương 4,1%) kế hoạch năm.

Hiện nay, Dự án Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn đã hoàn thành các mốc hoạt động chính gồm: Hoàn thành khởi động tất cả các phân xưởng công nghệ, sản xuất các sản phẩm đạt chất lượng, tất cả các phân xưởng công nghệ đang được vận hành tại công suất phù hợp theo kế hoạch. Dự án đã xuất bán thành công các lô sản phẩm gồm: xăng, diezen, propylene, lưu huỳnh, benzene, p-xylene.

Công tác chuẩn chạy kiểm tra đặc tính kỹ thuật đang được triển khai tích cực, phấn đấu đạt mốc nghiệm thu và bàn giao sơ bộ (IA) trong tháng 11/2018. Đây sẽ là đóng góp lớn vào năng lực mới tăng của nền kinh tế.

chi so san xuat cong nghiep nam 2018 nhieu kha nang dat muc tang truong hon 10
Toàn cảnh họp báo thường kỳ tháng 10/2018 của Bộ Công Thương.

Có thể thấy rằng, tăng trưởng sản xuất công nghiệp ngày càng được cải thiện, 9 tháng đầu năm 2018 chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành ước tính tăng 10,6% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 12,7%; quý II tăng 8,2%; quý III tăng 10,7%), đạt mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2012 trở lại đây.

Ngành công nghiệp duy trì mức tăng trưởng khá với 9 tháng tăng 8,98% so với cùng kỳ năm 2017, đóng góp 2,91 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định là điểm sáng của khu vực này và là động lực chính của tăng trưởng kinh tế với mức tăng giá trị tăng thêm khoảng 12,65%, tuy thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2017 nhưng cao hơn nhiều so với mức tăng 9 tháng các năm 2012-2016.

Sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm được mở rộng và duy trì đà tăng trưởng với mức tăng khá cao, mức tăng của các tháng đều cao hơn so với mức tăng của cùng kỳ năm trước. Ngành công nghiệp chủ lực chế biến chế tạo giữ vững được xu hướng tăng trưởng khá, tăng cao hơn so với cùng kỳ năm trước, là nhân tố chính tác động tích cực đến tăng trưởng chung của toàn ngành. Nhóm ngành chế biến chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn ngành công nghiệp tiếp tục tăng với tốc độ cao nhất (tăng 12,9% ).

Mặc dù tăng trưởng sản xuất công nghiệp bị ảnh hưởng bởi sự sụt giảm của ngành khai khoáng và ngành sản xuất, phân phối điện nhưng về cơ bản, sản lượng sản xuất đều đạt và vượt mức chỉ tiêu kế hoạch, tiêu thụ ổn định, Bên cạnh đó, ngành công nghiệp khai khoáng cũng đã nỗ lực, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu Chính phủ giao.

Cân đối về điện được đảm bảo, đáp ứng tốt nhu cầu về điện cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện 9 tháng 2018 tăng 9,7%; cơ cấu ngành công nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, gia tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và giảm dần công nghiệp khai khoáng.

Dự báo sản xuất công nghiệp các tháng cuối năm tăng trưởng tích cực, do các yếu tố thuận lợi từ nền kinh tế thế giới và kinh tế trong nước.

Tốc độ tăng IIP 9 tháng các năm 2012-2018 lần lượt là: 6,1%; 5,3%; 6,8%; 9,9%; 7,1%; 8,8%; 10,6%.

Tốc độ tăng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 9 tháng các năm 2012-2018 lần lượt là: 5,5%; 6,7%; 8,3%; 10,2%; 10,5%; 12,2%; 12,9%.

Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 9 tháng của một số năm: Năm 2012 tăng 8,74%; năm 2013 tăng 6,58%; năm 2014 tăng 7,09%; năm 2015 tăng 10,15%; năm 2016 tăng 11,20%; năm 2017 tăng 12,77%; năm 2018 tăng 12,65%.

chi so san xuat cong nghiep nam 2018 nhieu kha nang dat muc tang truong hon 10 MTA HANOI 2018: nơi hội tụ những thương hiệu lớn của ngành công nghiệp sản xuất và cơ khí chế tạo
chi so san xuat cong nghiep nam 2018 nhieu kha nang dat muc tang truong hon 10 Việt Nam - Hàn Quốc thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp thiết kế sáng tạo
chi so san xuat cong nghiep nam 2018 nhieu kha nang dat muc tang truong hon 10 Văn hóa doanh nghiệp là tinh thần, phần hồn của doanh nghiệp
chi so san xuat cong nghiep nam 2018 nhieu kha nang dat muc tang truong hon 10 9 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 10,6%
chi so san xuat cong nghiep nam 2018 nhieu kha nang dat muc tang truong hon 10 9 tháng đầu năm GDP cả nước tăng 6,98%, mức cao nhất 8 năm trở lại đây
chi so san xuat cong nghiep nam 2018 nhieu kha nang dat muc tang truong hon 10 Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam vào top 5 thế giới
chi so san xuat cong nghiep nam 2018 nhieu kha nang dat muc tang truong hon 10 PV GAS - Tiên phong trong ngành công nghiệp khí

Bùi Công

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 146,200 149,200
Hà Nội - PNJ 146,200 149,200
Đà Nẵng - PNJ 146,200 149,200
Miền Tây - PNJ 146,200 149,200
Tây Nguyên - PNJ 146,200 149,200
Đông Nam Bộ - PNJ 146,200 149,200
Cập nhật: 21/11/2025 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,830 15,030
Miếng SJC Nghệ An 14,830 15,030
Miếng SJC Thái Bình 14,830 15,030
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,830 ▲100K 15,030
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,830 ▲100K 15,030
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,830 ▲100K 15,030
NL 99.99 14,130 ▲100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,130 ▲100K
Trang sức 99.9 14,390 ▲100K 14,920
Trang sức 99.99 14,400 ▲100K 14,930
Cập nhật: 21/11/2025 10:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,483 15,032
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,483 15,033
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,459 1,484
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,459 1,485
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,444 1,474
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 141,441 145,941
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 103,211 110,711
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 92,892 100,392
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,573 90,073
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,593 86,093
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,122 61,622
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,483 1,503
Cập nhật: 21/11/2025 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16495 16763 17340
CAD 18190 18466 19081
CHF 32120 32502 33151
CNY 0 3470 3830
EUR 29806 30079 31101
GBP 33705 34094 35036
HKD 0 3257 3459
JPY 160 165 171
KRW 0 16 18
NZD 0 14450 15039
SGD 19641 19922 20447
THB 729 792 845
USD (1,2) 26117 0 0
USD (5,10,20) 26159 0 0
USD (50,100) 26187 26207 26392
Cập nhật: 21/11/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,172 26,172 26,392
USD(1-2-5) 25,126 - -
USD(10-20) 25,126 - -
EUR 30,036 30,060 31,198
JPY 164.71 165.01 171.94
GBP 34,130 34,222 35,033
AUD 16,778 16,839 17,281
CAD 18,428 18,487 19,013
CHF 32,470 32,571 33,248
SGD 19,811 19,873 20,493
CNY - 3,660 3,757
HKD 3,337 3,347 3,429
KRW 16.59 17.3 18.58
THB 778.17 787.78 838.24
NZD 14,472 14,606 14,948
SEK - 2,726 2,805
DKK - 4,017 4,133
NOK - 2,549 2,624
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,961.23 - 6,687.96
TWD 762.08 - 917.53
SAR - 6,934.52 7,258.89
KWD - 83,804 88,617
Cập nhật: 21/11/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,170 26,172 26,392
EUR 29,821 29,941 31,072
GBP 33,860 33,996 34,963
HKD 3,317 3,330 3,437
CHF 32,156 32,285 33,179
JPY 163.65 164.31 171.17
AUD 16,684 16,751 17,287
SGD 19,813 19,893 20,431
THB 791 794 829
CAD 18,376 18,450 18,984
NZD 14,498 15,004
KRW 17.19 18.77
Cập nhật: 21/11/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26162 26162 26392
AUD 16669 16769 17697
CAD 18370 18470 19485
CHF 32373 32403 33977
CNY 0 3674.5 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29982 30012 31737
GBP 34000 34050 35821
HKD 0 3390 0
JPY 164.06 164.56 175.08
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14553 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19797 19927 20660
THB 0 758.3 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 14830000 14830000 15030000
SBJ 13000000 13000000 15030000
Cập nhật: 21/11/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,205 26,255 26,392
USD20 26,205 26,255 26,392
USD1 23,880 26,255 26,392
AUD 16,722 16,822 17,943
EUR 30,121 30,121 31,250
CAD 18,323 18,423 19,735
SGD 19,878 20,028 20,591
JPY 164.53 166.03 170.64
GBP 34,099 34,249 35,031
XAU 14,828,000 0 15,032,000
CNY 0 3,556 0
THB 0 794 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 21/11/2025 10:00