Bất ngờ: Ông chủ của Nước sạch Sông Đà sở hữu loạt đất vàng Hà Nội

13:41 | 16/10/2019

372 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ông chủ thực sự của Công ty Nước sạch Sông Đà đang sở hữu hàng loạt khu đất vàng tại Hà Nội, có thể kể tới như Gelex Tower (52 Lê Đại Hành); Khách sạn Melia; Khách sạn Bình Minh - Số 10 Trần Nguyên Hãn.
Bất ngờ: Ông chủ của Nước sạch Sông Đà sở hữu loạt đất vàng Hà Nội
Khách sạn Melia Lý Thường Kiệt bao gồm Khách sạn Melia và Tòa nhà văn phòng cho thuê Hanoi Center Office tọa lạc tại vị trí vàng 44B Lý Thường Kiệt.

Trong bê bối nước sạch cung cấp cho người dân nhiều khu vực trên địa bàn Thủ đô Hà Nội bị nhiễm bẩn suốt gần một tuần qua, Công ty cổ phần Đầu tư Nước sạch Sông Đà (Viwasupco) là cái tên được dư luận hết sức quan tâm.

Đây chính là đơn vị vận hành Nhà máy nước mặt sông Đà, độc quyền cung cấp nước nguồn (bán buôn) cho các đối tác kinh doanh khác tại khu vực Tây Nam Hà Nội. Được biết, 90% lượng nước của Viwasupco được bán cho 3 khách hàng chính là Viwaco, Hawaco và nước sạch Hà Đông.

Liên quan tới vụ việc này, hiện Thủ tướng đã giao Bộ Công an khẩn trương điều tra vụ việc nguồn nước sạch bị ô nhiễm và việc cung cấp nước sạch cho người dân từ Viwasupco không đảm bảo chất lượng.

Ai là ông chủ thực sự của Viwasupco?

Công ty CP đầu tư nước sạch Sông Đà trước đây có tên là công ty cổ phần nước sạch Vinaconex (thuộc Tổng Công ty Cổ phần Vinaconex) được thành lập vào tháng 3/2009. Hiện tại Vinaconex cũng không còn là "chủ" của Viwasupco.

Theo báo cáo thường niên năm 2018 của Viwasupco, đến ngày 31/12/2018, các cổ đông lớn của công ty gồm có: Công ty TNHH MTV Năng lượng Gelex giữ tỉ lệ 60,46% cổ phần và Công ty cổ phần Cơ điện lạnh với 35,95% cổ phần.

Tổng công ty Thiết bị kỹ thuật điện, tiền thân của Tổng công ty cổ phần Thiết bị điện Việt Nam ngày nay, được thành lập ngày 10/7/1990 nhằm tập trung sức mạnh các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc ngành công nghiệp kỹ thuật điện.

Tháng 12/2010, doanh nghiệp này được cổ phần hoá để trở thành Tổng công ty cổ phần Thiết bị điện Việt Nam (Gelex) vào tháng 12 năm 2010. Ông Nguyễn Văn Tuấn giữ Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Gelex.

Gelex có trụ sở chính đặt tại tòa nhà Gelex, số 52 Lê Đại Hành, phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Các công ty thành viên, công ty liên kết có địa bàn hoạt động chính tại Hà Nội, TPHCM, Bắc Ninh, Nghệ An, Quảng Trị, Ninh Thuận, Đồng Nai.

Trong 3 năm qua, Gelex đã đạt được sự tăng trưởng mạnh về doanh thu và lợi nhuận. Năm 2018, Gelex đạt gần 13.700 tỷ đồng doanh thu và đạt hơn 1.533 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế. Lợi nhuận sau thuế đạt 1.283 tỷ đồng, tăng 41,6% so với năm trước đó và góp tên vào danh sách câu lạc bộ doanh nghiệp đạt lợi nhuận nghìn tỷ.

Sở hữu hàng loạt bất động sản "khủng"

Đáng chú ý, một trong những mảng kinh doanh cốt lõi của Gelex chính là bất động sản, cụ thể là lĩnh vực bất động sản thương mại.

Điểm mặt các dự án bất động sản đã hoàn thành và đang khai thác trong hệ thống Gelex có thể kể tới như Gelex Tower (52 Lê Đại Hành); Khách sạn Melia Hà Nội; Khách sạn Bình Minh - Số 10 Trần Nguyên Hãn - Hà Nội.

Trong đó, Gelex Tower - 52 Lê Đại Hành là dự án xây dựng trụ sở làm việc kết hợp văn phòng cho thuê của Gelex tại diện tích đất 1.937 m2 ở địa chỉ số 52 Lê Đại Hành, Hà Nội. Dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng từ năm 2014 với tổng diện tích xây dựng là 18.289 m2 với 3 tầng hầm và 22 tầng nổi.

Đối với Khách sạn Melia Hà Nội, Gelex hiện sở hữu 76,11% Công ty cổ phần Chế tạo điện cơ Hà Nội (HEM), HEM sở hữu 35% Công ty liên doanh SAS-CTAMAD - chủ đầu tư của Tổ hợp Khách sạn Melia Lý Thường Kiệt. Đây là tổ hợp gồm khách sạn và văn phòng cho thuê, tọa lạc tại vị trí 44B Lý Thường Kiệt, trung tâm tài chính và ngoại giao của Hà Nội, hiện đang được nhiều công ty nổi tiếng thế giới sử dụng.

Còn Khách sạn Bình Minh nằm tại vị trí số số 10 Trần Nguyên Hãn và 27- 29 Lý Thái Tổ, vị trí trung tâm tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hiện Khách sạn vẫn đang hoạt động, tuy nhiên Gelex đã xây dựng Dự án phát triển tổ hợp Tổ hợp Khách sạn, Dịch vụ Thương Mại, Văn phòng cho thuê 5 sao với tổng diện tích đất lập dự án là 9.934 m2, dự kiến khởi công vào quý 4/2019.

Song song với việc thực hiện các dự án trên, Gelex đã thành lập Công ty TNHH MTV Gelex Land, do Gelex sở hữu 100% vốn để phát triển các dự án bất động sản thương mại với trọng tâm là khách sạn, văn phòng, bán lẻ và bất động sản công nghiệp (nhà xưởng, kho tàng, bến bãi).

Ngoài ra, GELEX hiện nắm giữ 100% vốn tại Công ty TNHH Một thành viên năng lượng GELEX ENERGY hoạt động trong 3 lĩnh vực: đầu tư sản xuất điện sử dụng năng lượng tái tạo với các dự án điển hình là điện măt trời Ninh Thuận, Bình Thuận; đầu tư thủy điện với các dự án điển hình như Thủy điện Sông Bung 4A, Thủy điện CANAN 1, CANAN 2 và đầu tư khai thác và cung cấp nước sạch phục vụ đô thị với trọng điểm là Dự án nước sông Đà.

Mới đây tại Đại hội cổ đông thường niên năm 2019, Gelex cho biết, định hướng sẽ phát triển thêm lĩnh vực bất động sản khu công nghiệp, bao gồm cả hoạt động đầu tư nhà ở xã hội, nhằm tạo điều kiện ổn định cuộc sống cho người lao động tại khu công nghiệp, góp phần tăng sự hấp dẫn của các khu công nghiệp, đồng thời góp phần vào công tác an sinh xã hội.

Cùng với việc phát triển lĩnh vực bất động sản công nghiệp có kèm theo nhà ở xã hội nêu trên, Gelex cũng tham vọng mở rộng thêm lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng trong mảng công nghiệp theo hình thức đầu tư dự án hoặc mua bán, sáp nhập các doanh nghiệp tiềm năng trong ngành.

Theo Dân trí

Đại gia Trịnh Văn Quyết với kế hoạch “gây sốc” và cảnh tượng bất ngờ tại cổ phiếu FLC
Cổ phiếu “lạ” tăng giá sốc, gần nghìn doanh nghiệp “lên sàn cho vui”?
Cổ phiếu ông Trịnh Văn Quyết “cháy hàng”; Đại gia Hồ Xuân Năng mất bộn tiền
Giao dịch "bí ẩn" khiến tài sản nhà chồng Tăng Thanh Hà tăng mạnh sáng đầu tuần
Choáng ngợp với tốc độ chi “tiền tấn” của vợ và con gái đại gia Đặng Văn Thành
“Nội chiến” tại Eximbank: Khối “bí ẩn” ngay trên sàn chứng khoán

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC HCM 81,800 ▼200K 84,000
AVPL/SJC ĐN 81,800 ▼200K 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 73,250 ▼200K 74,200 ▼200K
Nguyên liệu 999 - HN 73,150 ▼200K 74,100 ▼200K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,800 ▼200K 84,000
Cập nhật: 25/04/2024 17:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.000 74.800
TPHCM - SJC 82.300 84.300
Hà Nội - PNJ 73.000 74.800
Hà Nội - SJC 82.300 84.300
Đà Nẵng - PNJ 73.000 74.800
Đà Nẵng - SJC 82.300 84.300
Miền Tây - PNJ 73.000 74.800
Miền Tây - SJC 82.000 ▼500K 84.300 ▼200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.000 74.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.300 84.300
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.000
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 72.900 73.700
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.030 55.430
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 41.870 43.270
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.410 30.810
Cập nhật: 25/04/2024 17:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,305 ▼15K 7,510 ▼15K
Trang sức 99.9 7,295 ▼15K 7,500 ▼15K
NL 99.99 7,300 ▼15K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,280 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,370 ▼15K 7,540 ▼15K
Miếng SJC Thái Bình 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Nghệ An 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Miếng SJC Hà Nội 8,230 ▼10K 8,430 ▼10K
Cập nhật: 25/04/2024 17:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 ▼500K 84,300 ▼200K
SJC 5c 82,000 ▼500K 84,320 ▼200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 ▼500K 84,330 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,100 74,800 ▼100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,100 74,900 ▼100K
Nữ Trang 99.99% 72,900 74,000 ▼100K
Nữ Trang 99% 71,267 ▼99K 73,267 ▼99K
Nữ Trang 68% 47,975 ▼68K 50,475 ▼68K
Nữ Trang 41.7% 28,511 ▼42K 31,011 ▼42K
Cập nhật: 25/04/2024 17:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,132.31 16,295.26 16,818.06
CAD 18,084.86 18,267.53 18,853.61
CHF 27,078.76 27,352.28 28,229.82
CNY 3,428.68 3,463.32 3,574.97
DKK - 3,581.24 3,718.38
EUR 26,509.78 26,777.56 27,963.40
GBP 30,937.15 31,249.64 32,252.22
HKD 3,157.93 3,189.82 3,292.16
INR - 303.56 315.69
JPY 158.10 159.69 167.33
KRW 15.97 17.75 19.36
KWD - 82,247.73 85,536.02
MYR - 5,254.14 5,368.74
NOK - 2,269.41 2,365.76
RUB - 261.89 289.91
SAR - 6,745.43 7,015.11
SEK - 2,290.51 2,387.76
SGD 18,188.62 18,372.35 18,961.78
THB 605.39 672.66 698.42
USD 25,137.00 25,167.00 25,477.00
Cập nhật: 25/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,302 16,402 16,852
CAD 18,290 18,390 18,940
CHF 27,333 27,438 28,238
CNY - 3,459 3,569
DKK - 3,596 3,726
EUR #26,730 26,765 28,025
GBP 31,354 31,404 32,364
HKD 3,164 3,179 3,314
JPY 159.56 159.56 167.51
KRW 16.66 17.46 20.26
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,276 2,356
NZD 14,866 14,916 15,433
SEK - 2,287 2,397
SGD 18,203 18,303 19,033
THB 632.07 676.41 700.07
USD #25,148 25,148 25,477
Cập nhật: 25/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,155.00 25,475.00
EUR 26,606.00 26,713.00 27,894.00
GBP 30,936.00 31,123.00 32,079.00
HKD 3,170.00 3,183.00 3,285.00
CHF 27,180.00 27,289.00 28,124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16,185.00 16,250.30 16,742.00
SGD 18,268.00 18,341.00 18,877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18,163.00 18,236.00 18,767.00
NZD 14,805.00 15,299.00
KRW 17.62 19.25
Cập nhật: 25/04/2024 17:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25155 25155 25477
AUD 16349 16399 16909
CAD 18342 18392 18848
CHF 27509 27559 28112
CNY 0 3463.6 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26943 26993 27703
GBP 31492 31542 32200
HKD 0 3140 0
JPY 160.89 161.39 165.9
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0381 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14917 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18446 18496 19057
THB 0 644.5 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 25/04/2024 17:00