Bàn về nét riêng trong phục trang Việt Nam

07:53 | 27/08/2021

949 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Kể từ khi con người biết lấy vỏ cây để che thân, rồi dệt xơ cây tầm ma để làm nên quần áo đến ngày nay có cả một ngành công nghiệp thời trang, có những trung tâm thời trang của thế giới để hướng dẫn gu ăn mặc thế nào cho đẹp, cho sang trọng, cho văn hóa,… Nhân loại đã tiến một bước khổng lồ về chuyện thời trang.
Bàn về nét riêng trong phục trang Việt Nam

Ở Việt Nam cũng vậy, khi biết lấy vỏ cây sui để làm khố, rồi sau trồng bông, chăn tằm dệt vải làm nên quần áo mặc để đi làm hàng ngày, mặc trong lễ hội, áo tứ thân mớ bảy mớ ba. Rồi người ta bàn đến vẻ đẹp áo dài phụ nữ Việt Nam, vẻ đẹp của quốc phục. Các nhà thiết kế thời trang đã đưa ra nhiều bộ sưu tập quần áo theo các mùa.

Mỗi một quốc gia trên thế giới đều sở hữu một nền văn hóa riêng, không nước nào giống với nước nào, vì thế phong cách ăn mặc của các quốc gia cũng khác nhau. Tuy rằng ảnh hưởng của toàn cầu hóa, hiện đại hóa hay giao lưu, du nhập văn hóa khiến phong cách thời trang đã thay đổi nhiều, có sự pha trộn, lai tạp. Tuy vậy, trang phục mỗi nền văn hóa, đất nước khác nhau vẫn có những nét đặc thù riêng. Đặc biệt là trong các bộ trang phục truyền thống, thường được gọi là quốc phục của từng quốc gia.

Tìm hiểu về văn hóa thời trang, chúng ta hiểu biết nhiều hơn về tương lai của thời trang toàn cầu. Thời trang không phải là một yếu tố riêng biệt của quần áo hay phụ kiện nhưng nó được kết nối với cuộc sống của chúng ta trong mọi khía cạnh và trong số đó văn hóa là quan trọng nhất. Thời trang phản ánh mong muốn của chúng ta đối với cuộc sống của chính mình. Thời trang ảnh hưởng đến lối sống của chúng ta.

Tìm hiểu văn hóa thời trang của dân tộc là rất cần thiết để có một cái nhìn đúng đắn. Gần đây, một số ngôi sao nghệ thuật và một số ít người mẫu đưa ra những kiểu ăn mặc táo bạo, phản cảm, bị dư luận phản ứng mạnh. Điều đó thể hiện sự thiếu hiểu biết về văn hóa thời trang.

Ăn mặc quần áo thể hiện văn hóa và đẳng cấp trong xã hội. Người ta đã tổng kết:

Hơn nhau tấm áo manh quần

Thả ra bóc trần, ai cũng như ai

Và quần áo lịch sự làm cho người tiếp xúc phải nể vì, trọng thị:

Người lạ nể áo, người quen nể lòng.

“Y phục xứng kì đức” là nói cách ăn mặc quần áo tương xứng, phù hợp với đức hạnh và vị trí xã hội của mỗi con người. Nguyễn Du khi nói về vẻ đẹp của chàng Kim Trọng “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”, đã tả chàng mặc áo rất đẹp, rất lịch sự:

Tuyết in sắc ngựa câu giòn

Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời

(Truyện Kiều)

Về thời trang, có thể nói đến quần áo ( quần áo lót, quần áo ngoài), váy, kèm với quần áo váy là khăn, nón, mũ, túi xách, dày, dép.

Chúng tôi chỉ giới hạn xem xét áo quần mặc thường nhật và trong hội hè, yếm, nón, khăn mà thôi.

Khi mà vải ít, lao động vất vả nên quần áo chóng rách, thì khó mà bàn đến chuyện mặc đẹp. Áo vá là chuyện thường thấy. Nhưng:

Chồng em áo rách em thương

Chồng người áo gấm xông hương mặc người

Lại có chuyện :

Áo rách khéo vá hơn lành vụng may.

Đề cao sự khéo tay của người phụ nữ: “Khéo vá vai, tài vá nách”.

Và cái váy vá nhiều mụn thì được người ta hài hước ví von:

Tiền lĩnh váy chị không bằng tiền chỉ váy tôi!

Chính vì vậy mà người Việt Nam coi trọng đạo đức và những phẩm chất hơn là sự ăn mặc đẹp, hình thức bề ngoài:

Tốt gỗ hơn tốt nước sơn!

Cái nết đánh chết cái đẹp!

Một nước nông nghiệp thường bị thiên tai, thiếu đói cho nên người Việt coi trọng “ăn chắc, mặc bền” , “ăn no mặc ấm” trước khi lo đến “ăn ngon mặc đẹp”!

Phổ biến nhất là tấm áo mặc để lao động, mặc trong dịp lễ tết, hội hè.

“Chiếc áo tứ thân ra đời do kỹ thuật dệt vải ngày xưa còn thô sơ nên hàng vải dệt ra có khổ hẹp, chừng 40 cm, muốn may thành áo phải ráp bốn mảnh thân lại với nhau. Chiếc áo tứ thân còn gọi là áo Giao Lãnh xưa – tức là loại áo khi mặc hai thân trước giao nhau mà không buộc lại, sau vì phải làm việc đồng áng, buôn bán… nên các mẹ, các chị “cải biên” lại thành áo tứ thân cho tiện lợi.

Có nhiều loại áo tứ thân, nhưng thường người ta hay bắt gặp loại áo tứ thân buông tà hay thắt vạt trên đồng, trên nương hay họp chợ…, còn loại áo mớ ba, mớ bảy thường được chị em ưu ái chọn để làm duyên trong các dịp hội hè, đình đám. Áo tứ thân mang nhiều ý nghĩa sâu sắc về nhân sinh quan và tình cảm con người, với bốn thân áo tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, hai tà trước buộc lại với nhau tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng âu yếm, khắng khít bên nhau” (Nguồn : Trang phục Việt Nam - tinh hoa hơn 4000 năm lịch sử, trang Tỉnh Đoàn Quảng Ngãi)

Chiếc áo là cái cớ để nam nữ tỏ tình:

Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen

Em được thì cho anh xin

Hay là em để làm tin trong nhà

Anh con trai khác tỏ tình:

Áo đen ai nhuộm cho mình

Cho duyên mình đậm, cho tình anh thương.

Chia tay nhau, người ta lưu luyến nhớ tấm áo:

Áo đen năm nút viền bâu

Bậu về xứ bậu biết nơi đâu mà tìm

Anh chị hát quan họ cởi áo tặng nhau:

Yêu nhau cởi áo cho nhau

Về nhà cha mẹ hỏi, qua cầu gió bay!

Cái áo của người thương xiết bao là thương quý. Áo để nhớ người:

Áo xông hương của chàng vắt mắc

Đêm em nằm em đắp lấy hơi

Chiếc ào dài của phụ nữ Việt Nam là một nét đẹp độc đáo, tôn vẻ đẹp của chị em.

Theo các nhà nghiên cứu, chiếc áo dài có tuổi đời rất lâu năm, ngay trên mặt trống đồng và hiện vật Đông Sơn người ta đã tìm thấy hình ảnh của chiếc áo dài tha thướt. Truyền thuyết kể lại rằng khi cưỡi voi xông trận, Hai Bà Trưng đã mặc áo dài hai tà giáp vàng, che lọng vàng. Do tôn kính hai bà, phụ nữ Việt xưa tránh mặc áo hai tà mà thay bằng áo tứ thân.

Đến thế kỷ 19,20, áo dài bắt đầu trở thành thứ trang phục không thể thiếu trong đời sống xã hội Việt, từ các bà hoàng, công chúa trong hoàng cung với các kiểu áo dài được may trang trọng, quý phái bằng chất liệu gấm, thêu chỉ vàng… đến các bà, các cô vận áo dài đến trường, đến công sở, ra chợ, dạo phố. Một thời gian dài trong thế kỷ 19-20, áo dài đã trở thành một loại thường phục được nam phụ lão ấu trên đất Việt yêu chuộng. Trải qua nhiều biến động lịch sử, cùng với sự du nhập của khuynh hướng thời trang phương Tây, áo dài đã có nhiều cải tiến theo từng trào lưu nhất định. áo dài vẫn chứng tỏ khả năng bất biến mà không phải loại trang phục nào cũng làm được: đó là tôn lên vóc dáng và nét đẹp quyến rũ dịu dàng cho người phụ nữ. Nhà thiết kế thời trang Minh Hạnh đã có nhưng bộ sưu tập áo dài trên nhiều chất liệu vải khác nhau rất đẹp và quyến rũ. Ngày nay, chiếc áo dài Việt Nam được may cách tân với nhiều kiểu dáng, màu sắc khác nhau, độ dài ngắn cũng khác nhau.

Một vật không thể thiếu trong thời trang của người phụ nữ Việt là chiếc yếm. Yếm là trang phục phổ biến và được chị em sáng tạo nhiều kiểu cổ yếm.

“Mặc dù yếm đào đã xuất hiện từ xa xưa, nhưng đến thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn, chiếc yếm mới trở thành một trong những loại “quốc phục” được cả dân tộc nâng niu, trân trọng. Chiếc yếm chính là hiện thân đầy quyến rũ, gợi cảm của nét đẹp phụ nữ Việt Nam. Có nhiều loại yếm như yếm cô viên cổ tròn, yếm cổ xẻ hình chữ V, yếm cổ cánh nhạn, yếm cổ xây… Đặc biệt là loại yếm “đeo bùa” là một “vũ khí lợi hại” mang đến nhiều vấn vương cho người đối diện bởi mùi xạ hương thoang thoảng được giấu bên trong yếm. Vào những ngày lễ tết, chiếc yếm màu sắc giản dị nâu non, trắng… được thay bằng các màu sắc rực rỡ, tươi sáng như yếm điều màu đỏ, yếm đào, yếm thắm”. (Nguồn : Trang phục Việt Nam - đã dẫn)

Hình ảnh chiếc yếm đào, yếm thắm từng đi vào truyện Cổ tích Tấm cám và trong tục ngữ, ca dao.

Con cò lặn lội bờ ao

Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng

Trong mười điều duyên dáng cũng là mười điều đáng thương yêu của người phụ nữ có nhắc đến cái yếm:

Một thương tóc bỏ đuôi gà/ Hai thương ăn nói mặn mà có duyên

Ba thương má lúm đồng tiền/ Bốn thương răng nháng hạt huyền kém thua

Năm thương cổ yếm đeo bùa

Cô gái táo bạo thì dùng yếm làm cầu cho người thương qua chơi:

Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi.

Cái yếm cũng là vật để nam thanh nữ tú hát ví, trêu đùa nhau, tỏ tình với nhau và thử tài ứng đối thấp cao:

Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím/ Em có chồng rồi trả yếm cho anh!

Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh/ Yếm em em mặc, yếm gì anh anh đòi!

Với người phụ nữ thì cùng với quần áo, yếm là khăn. Vuông khăn cũng là vật làm đẹp.

Cổ tay em trắng như ngà/Con mắt em sắc như là dao cau

Miệng cười như thể hoa ngâu/ Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.

Người phụ nữ chít khăn mỏ quạ, vấn tóc đuôi gà là một hình ảnh đẹp nền nã. “Để vấn khăn mỏ quạ đẹp cần phải có sự khéo léo và khiếu thẩm mỹ cao. Khăn mỏ quạ phải chít sao cho vừa và hợp với khuôn mặt, bởi nếu chít cao quá thì khuôn mặt trông có vẻ điêu ngoa, còn để mỏ quạ thấp quá làm khuôn mặt tối tăm. Khăn mỏ quạ chít khéo sẽ khum khum và ôm lấy khuôn mặt người con gái, làm cho khuôn mặt trắng hồng nổi bật trên nền đen của khuôn khăn, giống như một búp sen hồng làm ngây ngất lòng người khác phái”. ( Nguồn : Trang phục Việt Nam – đã dẫn) Hình ảnh cô gái vấn khăn mỏ quạ khéo tạo nên “khuôn mặt búp sen” đã vào trong thơ của thi sĩ Hoàng Cầm:

Ai về bên kia sông Đuống/Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen/Cười như mùa thu tỏa nắng

( Bên kia sông Đuống)

Khăn là vật tặng nhau làm tin. Khi trách nhau, chàng trai kì kèo:

Khăn anh nàng lấy vá vai/ Bây giờ nàng đã nghe ai dỗ dành

Chẳng nên ra, tháo chỉ, lấy mụn trả anh/ Để anh đem bán lấy hai trăm vàng

Kim Trọng khi gặp Thúy Kiều để tặng vật đính ước, chàng cũng nghĩ đến chiếc khăn:

Vội về thêm lấy của nhà

Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông.

Khăn trở thành đối tượng để người con gái tâm tình. Và bài ca dao về khăn được nhà phê bình văn học Hoài Thanh đánh giá là một trong những câu ca dao hay nhất của Việt Nam ( Hoàng tiến Tựu - Bình giảng ca dao, Nxb Giáo dục, trang 127) :

Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất/ Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai/ Khăn thương nhớ ai/Khăn chùi nước mắt

Đèn thương nhớ ai/ Mà đèn không tắt/Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên/Đêm qua em những lo phiền/Lo vì một nỗi chưa yên mọi bề.

Cùng với quần áo thì “cái nón”, nón ba tầm, nón thúng quai thao, nón ba Đồn, Nón Chuông, nón Huế là những vật bất li thân. Chiếc nón là vật che nắng, che mưa, có thể ngả ra ngồi, có thể dùng làm quạt. Nhưng nón cũng là vật làm đẹp cho phụ nữ :

Ai làm chiếc nón quai thao/Để cho anh thấy cô nào cũng xinh.

Chiếc nón đi vào câu hát ví von để tỏ tình:

Qua đình ngả nón trông đình/Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu

Cô gái lấy cớ mượn nón để ngỏ lời với chàng trai :

Hôm nay trời nắng chang chang/Ở đây xa nước xa làng xa dân

Chàng cho em mượn cái nón làm ăn/Nhà em xa lắm có gần đâu ai

Trời làm gió trúc mưa mai/Không mượn chàng nón, mượn ai bây giờ […]

Mất một em sẽ đền ba/ Nhược bằng mất cả đền ta cho mình

Các nhà thơ khi nhớ về mẹ mình, bao giờ cũng nhắc tới cái nón như một vật biểu trưng cho sợ tần tảo, lam lũ, hi sinh:

Thúng cắp nách, nón đội đầu/ Mẹ tôi đi chợ môi trầu đỏ tươi

(Phạm Công Trứ)

Mẹ ta không có yếm đào/ Nón mê thay nón quai thao đội đầu

(Nguyễn Duy)

Mẹ tôi nón lá bước lên/ Mạ non đầu hạ trăng liềm cuối thu

(Hữu Thỉnh)

Khách du lịch nước ngoài khi rời Việt Nam, một vật họ hay tìm mua là chiếc nón. Nón là biểu tượng cho vẻ đẹp người phụ nữ Việt. Áo quần, yếm, khăn, nón làm đẹp cho con người.

Giới trẻ có một số người luôn chạy theo mốt. Hết quần ống loe, sang quần ông tuýp, rồi đến quần ngáp (hở rốn), rồi quần bò mới nhưng để rách đầu gối, rách để hở bắp chân, bắp đùi. Cứ ngỡ đó là đẹp nhưng chỉ lạ chứ không đẹp! Một vài người mẫu ăn mặc áo dài, không quần lót, hoặc áo mỏng để lộ nội y rồi chụp ảnh khoe trên mạng. Đó chỉ thể hiện sự ấu trĩ, không có văn hóa thời trang. Một số bạn nữ trẻ mặc áo cổ trễ, mặc váy quá ngắn đến nơi thờ tự cũng là việc làm phản cảm.

Ăn mặc đẹp, hợp thời trang, phù hợp với công việc nơi ruộng đồng, chốn trường học, nơi công sở, bệnh viện là nhu cầu của mọi người. Thể hiện nét văn hóa trong thời trang là mong muốn của mọi tầng lớp trong xã hội.

PGS.TS. Vũ Nho

  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps