4 rủi ro lớn đe dọa nền kinh tế toàn cầu 3 tháng cuối năm

14:43 | 04/10/2021

7,086 lượt xem
|
Nền kinh tế toàn cầu đang bước vào quý cuối cùng của năm với vô số những sóng gió đe dọa sự phục hồi chậm lại của nền kinh tế sau đại dịch.
4 rủi ro lớn đe dọa nền kinh tế toàn cầu 3 tháng cuối năm  - 1
Chi phí nhiên liệu và thực phẩm đang tăng cao trên toàn thế giới cùng với sự tắc nghẽn ở các cảng và chuỗi cung ứng căng thẳng đang khiến giá cả hàng hóa leo thang (Ảnh: Bloomberg).

Sự lây lan của biến thể Delta đang tiếp tục làm gián đoạn hoạt động của các trường học và công sở. Các nhà lập pháp Mỹ vẫn đang tranh cãi về mức trần nợ công và kế hoạch chi tiêu. Còn Trung Quốc đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng thiếu điện trầm trọng và tăng cường kiểm soát các lĩnh vực. Trong khi đó, thị trường toàn cầu vẫn thấp thỏm khi "bom nợ" hơn 300 tỷ USD Evergrande vẫn còn lơ lửng và công ty này đang vật lộn để sống sót.

Chi phí nhiên liệu và thực phẩm đang tăng cao trên toàn thế giới cùng với sự tắc nghẽn ở các cảng và chuỗi cung ứng căng thẳng đang khiến giá cả hàng hóa leo thang. Sự thiếu hụt lao động tiếp tục xảy ra ở nhiều nơi.

Mặc dù tiềm năng tăng trưởng vẫn còn nhưng bối cảnh như vậy làm dấy lên những lo ngại về tăng trưởng yếu hơn và lạm phát tăng nhanh hơn. Điều đó có nguy cơ làm phức tạp những nỗ lực của các ngân hàng trung ương trong việc tung các gói kích thích trở lại mà không làm xáo trộn thị trường.

"Kỳ vọng thoát khỏi đại dịch nhanh chóng luôn không đạt được", ông Frederic Neumann - đồng trưởng bộ phận nghiên cứu kinh tế châu Á tại HSBC Holdings Plc ở Hồng Kông - nói và cho rằng: "Sự phục hồi hoàn toàn có thể sẽ phải tính bằng năm, không phải bằng quý".

Trong khi đó, các nhà kinh tế tại Barclays Bank cũng cảnh báo về những "cơn gió ngược" có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế toàn cầu.

Dưới đây là những rủi ro lớn mà nền kinh tế toàn cầu sẽ phải đối mặt trong quý cuối cùng của năm 2021:

Thiếu điện ở Trung Quốc

Thiếu điện trên diện rộng ở Trung Quốc đang buộc hàng loạt các nhà máy phải hạn chế sản xuất, thậm chí tạm dừng hoạt động. Điều đó khiến các nhà kinh tế phải hạ dự báo tăng trưởng của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới.

4 rủi ro lớn đe dọa nền kinh tế toàn cầu 3 tháng cuối năm  - 2
Thiếu điện trên diện rộng ở Trung Quốc đang ảnh hưởng đến tăng trưởng vốn đang chậm lại của nước này (Ảnh: Getty).

Bloomberg Economics cho rằng, thiếu điện ở Trung Quốc là ảnh hưởng lớn nhất đối với tăng trưởng kinh tế nước này kể từ sau đợt đóng cửa trên toàn quốc do dịch Covid-19 bùng phát lần đầu vào năm ngoái.

Các khu vực bị ảnh hưởng nặng nề do thiếu điện chiếm 2/3 nền kinh tế, bao gồm 5 tỉnh đứng đầu về tổng sản phẩm quốc nội như Quảng Đông, Giang Tô, Sơn Đông, Chiết Giang và Hà Nam.

Tình hình này cộng với cuộc khủng hoảng nợ của Evergrande - nhà phát triển bất động sản mắc nợ nhiều nhất thế giới và sự suy thoái rộng hơn trong lĩnh vực nhà đất càng gây áp lực lên sự tăng trưởng vốn đang chậm lại của Trung Quốc.

Ngoài ra, việc Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thúc đẩy áp dụng các quy định chặt chẽ hơn đối với các ngành công nghiệp, trong đó đáng chú ý là lĩnh vực công nghệ, đang khiến giới đầu tư lo lắng.

Giá thực phẩm, năng lượng leo thang

Cuộc khủng hoảng năng lượng của Trung Quốc cũng có nguy cơ làm giá lương thực thực phẩm trên thế giới leo thang. Điều đó có nghĩa nước này đang phải trải qua một mùa thu hoạch khó khăn từ ngô, đậu nành đến lạc và bông. Trong năm qua, Bắc Kinh đã nhập một lượng nông sản kỷ lục để bù đắp thiếu hụt trong nước, khiến cho giá thực phẩm trên toàn cầu lên mức cao nhất trong nhiều năm.

Chỉ số giá lương thực, thực phẩm của Liên Hợp Quốc đã tăng 33% trong 12 tháng qua.

Trong khi đó, giá khí đốt, than, carbon và điện cũng đang ở mức cao kỷ lục. Giá dầu lần đầu tiên đã vượt mốc 80 USD trong 3 năm. Giá khí đốt cũng đắt nhất trong 7 năm.

4 rủi ro lớn đe dọa nền kinh tế toàn cầu 3 tháng cuối năm  - 3

Ông Patrick Pouyanne - Giám đốc điều hành của TotalEnergies SE - cho biết cuộc khủng hoảng khí đốt đang ảnh hưởng đến châu Âu có thể sẽ kéo dài cả mùa đông năm nay.

Tình hình thậm chí còn tồi tệ hơn. Các nhà phân tích của Bank of American cho rằng, giá dầu có khả năng đạt mốc 100 USD, gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế.

Sức ép nguồn cung

Ngoài biến thể Delta, kinh tế toàn cầu đang đối mặt với một nỗi lo khác khi mùa đông ở bắc bán cầu đang đến gần.

Điều đó giải thích tại sao tình trạng tắc nghẽn đang gia tăng tại các ngã tư quan trọng của thương mại quốc tế, từ các cảng ở Thượng Hải và Los Angeles, đến các tuyến đường sắt ở Chicago và các kho hàng ở Anh.

Trong khi, các nhà bán lẻ đang cố gắng đặt hàng mọi thứ có thể để đảm bảo đủ hàng cho mùa mua sắm cuối năm, các nhà sản xuất lại gặp khó trong việc tìm nguồn cung ứng cho các nguyên liệu quan trọng như chất bán dẫn, hóa chất và thủy tinh.

Dubai's DP World - một trong những nhà khai thác cảng toàn cầu lớn nhất - cho rằng, sự tắc nghẽn làm ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại toàn cầu này sẽ tiếp tục ít nhất trong 2 năm nữa.

Ngoài ra, tình trạng thiếu hụt lao động ở một số ngành công nghiệp cũng là một vấn đề lớn đối với các doanh nghiệp.

Các vấn đề chính sách và tiền tệ của Mỹ

Các vấn đề trong chính sách kinh tế của Mỹ, đầu tàu cho sự phục hồi kinh tế toàn cầu, cũng có ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu.

Trong khi Tổng thống Mỹ Joe Biden nỗ lực ngăn chặn chính phủ liên bang đóng cửa bằng một đạo luật ngân sách ngắn hạn, các cuộc đàm phán về chương trình nghị sự kinh tế trị giá 4.000 tỷ USD của ông vẫn rơi vào bế tắc.

Trước đó, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen cảnh báo chính phủ Mỹ sẽ cạn tiền mặt vào khoảng 18/10 nếu Quốc hội Mỹ không nâng trần nợ công. Theo bà Yellen, nếu không làm như vậy Mỹ sẽ vỡ nợ, đây là một sự kiện "thảm khốc", có thể gây ra một cuộc suy thoái và khủng hoảng tài chính.

Trên toàn cầu, các chính sách hỗ trợ tài chính sẽ chậm lại vào năm 2022 sau khi các chính phủ gánh khoản nợ công lớn nhất kể từ những năm 1970.

Trong khi đó, lạm phát đang tăng nhanh trên toàn cầu. Chỉ riêng ngày 1/10, lạm phát khu vực đồng euro đã ở mức cao nhất 13 năm. Lạm phát tại Mỹ cũng tăng cao nhất kể từ năm 1991.

Mặc dù, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Jerome Powell và Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu Christine Lagarde lạc quan cho rằng lạm phát sẽ giảm bớt, nhưng các nhà kinh tế vẫn hoài nghi liệu lạm phát tăng có trở thành một vấn đề dài hạn.

Theo Dân trí

Liều thuốc vực dậy kinh tế cuối năm: Tiền không là tất cả!Liều thuốc vực dậy kinh tế cuối năm: Tiền không là tất cả!
Chủ tịch Dragon Capital: Cơ hội vẫn còn, Việt Nam phải sớm hành độngChủ tịch Dragon Capital: Cơ hội vẫn còn, Việt Nam phải sớm hành động
8 hiệp hội kiến nghị Thủ tướng chia 2 giai đoạn mở cửa, thích ứng với Covid8 hiệp hội kiến nghị Thủ tướng chia 2 giai đoạn mở cửa, thích ứng với Covid
Chuyên gia  Washington D.C  nêu điểm đặc biệt chú ý khi mở cửa kinh tếChuyên gia Washington D.C nêu điểm đặc biệt chú ý khi mở cửa kinh tế
2 viễn cảnh kinh tế cuối năm: Mở cửa lại cần đúng thời điểm và bài bản2 viễn cảnh kinh tế cuối năm: Mở cửa lại cần đúng thời điểm và bài bản
Bà Phạm Chi Lan: Không thể vin cớ Covid-19 mà đình hoãn cải cách kinh tếBà Phạm Chi Lan: Không thể vin cớ Covid-19 mà đình hoãn cải cách kinh tế

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Hà Nội - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Đà Nẵng - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Miền Tây - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Tây Nguyên - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Đông Nam Bộ - PNJ 143,800 ▼1200K 146,800 ▼1200K
Cập nhật: 05/11/2025 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,550 ▼70K 14,750 ▼70K
Miếng SJC Nghệ An 14,550 ▼70K 14,750 ▼70K
Miếng SJC Thái Bình 14,550 ▼70K 14,750 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,450 ▼70K 14,750 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,450 ▼70K 14,750 ▼70K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,450 ▼70K 14,750 ▼70K
NL 99.99 13,780 ▼70K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 13,780 ▼70K
Trang sức 99.9 14,040 ▲200K 14,640 ▼170K
Trang sức 99.99 14,050 ▲200K 14,650 ▼170K
Cập nhật: 05/11/2025 20:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,455 ▼7K 14,752 ▼70K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,455 ▼7K 14,753 ▼70K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,427 ▼7K 1,452 ▼7K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,427 ▼7K 1,453 ▲1307K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,412 ▼7K 1,442 ▼7K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,272 ▼693K 142,772 ▼693K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 100,811 ▼525K 108,311 ▼525K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 90,716 ▼476K 98,216 ▼476K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 80,621 ▼427K 88,121 ▼427K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 76,727 ▼408K 84,227 ▼408K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 52,787 ▼292K 60,287 ▼292K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,455 ▼7K 1,475 ▼7K
Cập nhật: 05/11/2025 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16526 16795 17369
CAD 18100 18375 18989
CHF 31820 32201 32845
CNY 0 3470 3830
EUR 29595 29866 30892
GBP 33511 33898 34830
HKD 0 3254 3456
JPY 164 168 174
KRW 0 17 19
NZD 0 14550 15136
SGD 19601 19882 20402
THB 724 787 841
USD (1,2) 26057 0 0
USD (5,10,20) 26098 0 0
USD (50,100) 26127 26146 26351
Cập nhật: 05/11/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,131 26,131 26,351
USD(1-2-5) 25,086 - -
USD(10-20) 25,086 - -
EUR 29,843 29,867 31,001
JPY 168.25 168.55 175.58
GBP 33,902 33,994 34,787
AUD 16,847 16,908 17,347
CAD 18,356 18,415 18,940
CHF 32,234 32,334 33,011
SGD 19,761 19,822 20,441
CNY - 3,646 3,743
HKD 3,335 3,345 3,427
KRW 16.81 17.53 18.86
THB 773.44 782.99 833.15
NZD 14,598 14,734 15,082
SEK - 2,709 2,787
DKK - 3,994 4,109
NOK - 2,542 2,616
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,883.54 - 6,599.25
TWD 770.79 - 927.44
SAR - 6,920 7,243.82
KWD - 83,601 88,404
Cập nhật: 05/11/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,130 26,131 26,351
EUR 29,630 29,749 30,877
GBP 33,620 33,755 34,731
HKD 3,317 3,330 3,437
CHF 31,917 32,045 32,947
JPY 167.83 168.50 175.58
AUD 16,682 16,749 17,295
SGD 19,764 19,843 20,380
THB 786 789 824
CAD 18,304 18,378 18,909
NZD 14,584 15,081
KRW 17.45 19.07
Cập nhật: 05/11/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26169 26169 26351
AUD 16705 16805 17738
CAD 18280 18380 19394
CHF 32057 32087 33673
CNY 0 3657.5 0
CZK 0 1186 0
DKK 0 4045 0
EUR 29769 29799 31525
GBP 33804 33854 35615
HKD 0 3390 0
JPY 167.76 168.26 178.77
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.196 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2592 0
NZD 0 14660 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2773 0
SGD 19755 19885 20613
THB 0 753.8 0
TWD 0 850 0
SJC 9999 14550000 14550000 14750000
SBJ 13000000 13000000 14750000
Cập nhật: 05/11/2025 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,149 26,199 26,351
USD20 26,149 26,199 26,351
USD1 26,149 26,199 26,351
AUD 16,778 16,878 17,991
EUR 29,933 29,933 31,250
CAD 18,250 18,350 19,657
SGD 19,832 19,982 20,510
JPY 168.44 169.94 174.53
GBP 33,859 34,009 35,050
XAU 14,498,000 0 14,702,000
CNY 0 3,542 0
THB 0 789 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 05/11/2025 20:00