3 yếu tố giúp Việt Nam chưa quá nóng ruột với lạm phát

12:59 | 11/11/2021

1,995 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Việt Nam "bơm tiền" khá thận trọng và ít so với những gói tiền dễ khổng lồ của các quốc gia để ứng phó đại dịch. Theo đó, nguy cơ lạm phát đang nóng lên liệu sẽ loại trừ nền kinh tế có độ mở rộng?

Tương quan lạm phát và... giá thịt heo

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tháng 10/2021, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng chỉ 1,81% so với cùng kỳ năm 2020, là mức thấp nhất từ trước đến nay. Cùng với đó, giá xăng dầu tăng mạnh, song giá thịt heo hơi trong nhóm hàng hóa lương thực của rổ tính CPI lại có xu hướng giảm.

Lạm phát tiếp tục được kiểm soát
Lạm phát tiếp tục được kiểm soát

Vì sao giá heo hơi mà Tổng cục Thống kê công bố lại khác biệt so với thị trường? Theo tôi được biết, các nhà quản lý căn cứ giá heo trên cơ sở đánh giá tại nguồn hoặc đơn vị sản xuất đầu nguồn có thị phần lớn. Trong khi đó chúng ta biết là để giá thịt heo đưa ra thị trường, sẽ phải trải qua rất nhiều công đoạn từ giết mổ tại lò đến phân phối, ra chợ hoặc siêu thị... và do đó mà có khác biệt về giá.

Giá thịt héo có xu hướng giảm nhưng dự báo sẽ tăng vào cuối năm 2021
Giá thịt heo có xu hướng giảm nhưng dự báo sẽ tăng vào cuối năm 2021

Tuy nhiên, khảo sát gần nhất về thực tế giá heo trên thị trường, ghi nhận cho thấy đã có xu hướng giảm so với trước. Nguyên do trước đây vì dịch COVID-19 lần thứ tư bùng phát mạnh tại các địa phương và bắt buộc áp dụng giãn cách xã hội dài ngày, dẫn đến có sự đứt gãy chuỗi cung ứng lưu thông vận chuyển giữa các tỉnh thành, đẩy giá lên cao. Khi các địa phương nới lỏng giãn cách, tiến vào bình thường mới thì hầu như các chuỗi lưu thông này trở lại bình thường, giá cả hàng hóa như thịt heo cũng hạ nhiệt về mức bình thường.

Dù vậy, lưu ý rằng mặc dù giá thịt heo hiện tại trên thị trường hoặc theo Tổng cục Thống kê tuy có chênh lệch nhưng chung xu hướng giảm, thì dự báo đến cuối năm, giá heo vẫn sẽ tăng trở lại, đặc biệt là dịp gần tết với nhu cầu tiêu thụ tăng cao. Chúng tôi cũng dự báo theo quy luật, mức tăng giá heo cuối năm cũng sẽ trong kiểm soát, không gây áp lực lạm phát từ nay đến cuối năm và cả 2022, vì giá sẽ lên từ từ không gây sốc.

Ngoài lương thực, giá xăng dầu hiện tại tăng mạnh do ảnh hưởng giá dầu thế giới. Xăng dầu là một trong những hàng hóa nhiên liệu đầu vào có sức tác động lớn đối với nền kinh tế, bởi chỉ cần xăng dầu tăng lên thì chi phí vận chuyển, logistic sẽ lên giá và giá cả nhiều hàng hóa cũng sẽ tăng. Tuy vậy, mặc dù giá xăng dầu tăng song trong tháng 9, tháng 10 rõ ràng CPI vẫn thấp nên mức tăng này vẫn có thể kiểm soát được.

Giá xăng dầu đang là một trong những yếu tố tác động đến chi phí vận chuyển và giá cả hàng hóa cuối năm
Giá xăng dầu đang là một trong những yếu tố tác động đến chi phí vận chuyển và giá cả hàng hóa cuối năm

Đặt giả thiết là nếu giá xăng dầu tăng tiếp, thì tôi vẫn cho rằng Chính phủ còn nhiều dư địa kiểm soát giá xăng dầu không để đẩy lạm phát leo thang. Chẳng hạn như trên mỗi lít xăng bán ra nhà nước đang áp thuế và người tiêu dùng đang “cõng thuế”. Chỉ cần giảm một loại thuế ví dụ như thuế môi trường trong giai đoạn cần kíp thì tất yếu giá sẽ hạ nhiệt. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng có thể sử dụng Quỹ bình ổn để điều tiết giá xăng dầu sâu. Theo đó, dù tác động lớn nhưng xu hướng tăng giá xăng dầu vẫn không thể tạo mối nguy hiểm lớn, gây áp lực lạm phát căng thẳng với Việt Nam trong cuối 2021 và 2022.

Ba yếu tố "chống" lạm phát, nâng đỡ phục hồi kinh tế

Việt Nam hiện vẫn đang có nhiều lợi thế để vượt qua rủi ro, giảm áp lực từ lạm phát của thế giới, của giá cả hàng hóa leo thang và cả sức ép của nội tại trong nước nếu chúng ta tiếp tục tính toán đến những gói kích thích kinh tế lớn. Trong đó, 3 yếu tố cơ bản giúp Việt Nam giảm áp lực lạm phát và có điều kiện phục hồi sản xuất, phục hồi kinh tế tốt hơn, là:

Diễn biến của tỷ giá cho thấy niềm tin vào kỷ luật đồng nội tệ
Diễn biến của tỷ giá cho thấy niềm tin vào kỷ luật đồng nội tệ

Thứ nhất, đồng tiền Việt Nam (VND) đang mạnh lên. Theo dữ liệu quan sát trong 10 tháng 2021, tỷ giá VND/USD hiện đang có xu hướng đi xuống, mọi năm VND mất giá ở khoảng 2% so với USD. Năm nay, đồng VN mạnh lên, giúp cho chi phí nhập khẩu hàng hóa giảm đi, giúp giảm áp lực lạm phát thời gian tới. Chứng kiến chu kỳ tỷ giá mạnh lên, đồng VN sẽ ngày càng có giá trị theo chiến lược tăng trưởng kinh tế phụ thuộc thương mại khi Việt Nam trở thành "HUB" hút mọi dòng vốn đầu tư, theo đó nếu tạo ra thặng dư thương mại lớn 19,5 tỷ USD như 2020 và lấy lại xuất siêu trong thời gian tới (dù chúng ta đã nhập siêu trong những tháng qua-BT), thì tỷ giá sẽ ngày càng mạnh hơn. Điều này dường như có sự tương đồng với chính sách của Trung Quốc cách đây 10-15 năm, họ đã nỗ lực duy trì đồng Nhân dân tệ mạnh và thu hút vốn đầu tư, qua đó tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia rất lớn (đến nay đạt khoảng hơn 3.000 tỷ USD), giúp giảm nhiều áp lực với vĩ mô và lạm phát.

Tình hình sản xuất phục hồi đáng kể
Tình hình sản xuất phục hồi đáng kể

Thứ hai, sức mạnh nội tại của các doanh nghiệp Việt Nam đã khỏe hơn, dễ thích nghi và phục hồi hơn. Theo ghi nhận của Tổng cục Thống kê, 9 tháng 2021, đã có hơn 90.000 nghìn doanh nghiệp đình trệ hoạt động, giải thể, phá sản, tương đương khoảng 10.000 doanh nghiệp/ tháng rơi vào khó khăn. Có thể nói số lượng doanh nghiệp khó khăn là rất lớn, nhưng bóc tách ra sẽ thấy nhiều trong số khó khăn là các doanh nghiệp mới thành lập, mới có tuổi đời kinh doanh ngắn, doanh nghiệp quy mô rất nhỏ... Số lượng các doanh nghiệp lớn bị ảnh hưởng ít hơn.

Ghi nhận tác động lớn nhất của đại dịch lần thứ 4 với các doanh nghiệp có lẽ là vào giai đoạn tháng 7 và 8, đặc biệt trong đó chịu tác động kéo dài vẫn là khối du lịch; nhưng ở khối sản xuất thương mại, mức tác động ít hơn. Cho đến khi mở cửa lại, Việt Nam đã nhanh chóng phục hồi và lũy kế 10 tháng 2021, đã xuất khẩu đạt/ vượt ngưỡng 267,93 tỷ USD, nhập khẩu 269,38 tỷ USD, qua đó lấy lại xuất siêu như chúng ta kỳ vọng ở trên, với mức xuất siêu đạt 1,45 tỷ USD. Đây không chỉ là sự tích cực về mặt vĩ mô mà rõ ràng điều này cho thấy các doanh nghiệp đặc biệt khối mũi nhọn đóng góp lớn cho GDP là xuất khẩu, vẫn thích nghi được với bối cảnh khó khăn nhất và khi điều kiện kinh doanh trở lại, họ sẽ phục hồi rất nhanh. Nội tại của nhiều doanh nghiệp đã được cải thiện có ý nghĩa lớn trong kỳ vọng thúc đẩy tăng trưởng quý IV, giúp giảm cả áp lực lạm phát trong nghịch cảnh sức cầu tiêu dùng vẫn chậm.

FDI đổ vào Việt Nam tiếp tục tăng
FDI đổ vào Việt Nam tiếp tục tăng

Thứ ba, lực hỗ trợ lớn từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Theo ghi nhận, FDI đã bị ảnh hưởng trong quý 3/2021 vì dịch bệnh và qua đó tác động dòng vốn đầu tư; tuy nhiên khi Chính phủ có kế hoạch mở cửa dòng vốn thì FDI lập tức phục hồi và có xu hướng tích cực. Tôi cho rằng xu hướng này sẽ còn tích cực hơn nữa nêu chúng ta duy trì mở cửa kinh tế, kiểm soát dịch bệnh, phủ đều vaccine và tiến tới mở cửa hàng không. 10 tháng 2021, FDI đã đăng ký 23,74tỷ USD, tăng 11,6%, tuy nhiên FDI thực hiện giải ngân có giảm 4,1% với nguyên do ảnh hưởng COVID khiến việc đi lại không thuận tiện. Xu hướng tăng trưởng FDI vẫn còn ở phía trước. Bên cạnh đó theo diễn tiến chuyến công du của Thủ tướng Chính phủ tại châu Âu và COP26, Việt Nam sẽ hướng đến đầu tư năng lượng tái tạo, điện khí mạnh mẽ hơn nữa để thay thế điện than. Đây cũng là động lực của việc đón vốn FDI vào năng lượng tái tạo từ các quốc gia như Singapore, Mỹ và nhiều quốc gia khác. Gần nhất, Mỹ đầu tư vào dự án điện khí Bình Thuận quy mô lớn, cho thấy xu hướng này.

Tóm lại, nhìn chung lạm phát sẽ là một biến số cần được quan sát và chi phối các quyết định của chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa của Việt Nam thời gian tới. Song với "dư địa" và khả năng kiểm soát của Chính phủ, lạm phát sẽ không thực sự đáng lo ngại quá mức như nhiều người và giới đầu tư đang lo ngại hiện nay. Nền kinh tế vẫn còn nhiều cơ hội để phục hồi sản xuất, phục hồi tăng trưởng mạnh. Điều kiện quan trọng của thời gian tới là cần một chương trình kích thích kinh tế tổng thể mà việc giải ngân thực tế và hiệu quả, sẽ giúp thúc đẩy đà phục hồi này.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

"Không thể cứ vay tiền thuê nước ngoài để xây đường sắt đô thị"
Lo rủi ro lạm phát, nợ xấu tăng, đại biểu nói cách Lo rủi ro lạm phát, nợ xấu tăng, đại biểu nói cách "tiếp máu" cứu kinh tế
Bộ Công Thương nói về việc “ghìm cương” giá xăng dầuBộ Công Thương nói về việc “ghìm cương” giá xăng dầu

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
AVPL/SJC HCM 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
AVPL/SJC ĐN 118,000 ▲800K 120,000 ▲800K
Nguyên liệu 9999 - HN 11,020 ▲50K 11,300 ▲50K
Nguyên liệu 999 - HN 11,010 ▲50K 11,290 ▲50K
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
TPHCM - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Hà Nội - PNJ 112.500 115.000
Hà Nội - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Đà Nẵng - PNJ 112.500 115.000
Đà Nẵng - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Miền Tây - PNJ 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Miền Tây - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.500 115.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.500 ▲1300K 120.500 ▲1300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.000 ▲500K 115.500 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.800 ▲500K 115.300 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.690 ▲500K 115.190 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.980 ▲500K 114.480 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.750 ▲500K 114.250 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.130 ▲380K 86.630 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.100 ▲290K 67.600 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.620 ▲210K 48.120 ▲210K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 102.760 105.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.680 70.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.270 74.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.710 78.210
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.700 43.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.530 38.030
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,090 ▲50K 11,540 ▲50K
Trang sức 99.9 11,080 ▲50K 11,530 ▲50K
NL 99.99 10,850
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,850
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,300 ▲50K 11,600 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Miếng SJC Nghệ An 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Miếng SJC Hà Nội 11,850 ▲150K 12,050 ▲130K
Cập nhật: 13/05/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16110 16377 16951
CAD 18054 18329 18946
CHF 30135 30509 31153
CNY 0 3358 3600
EUR 28214 28480 29510
GBP 33448 33835 34771
HKD 0 3199 3401
JPY 168 173 179
KRW 0 17 18
NZD 0 14967 15556
SGD 19368 19648 20173
THB 697 760 813
USD (1,2) 25688 0 0
USD (5,10,20) 25726 0 0
USD (50,100) 25754 25788 26130
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,790 25,790 26,150
USD(1-2-5) 24,758 - -
USD(10-20) 24,758 - -
GBP 33,792 33,883 34,780
HKD 3,273 3,283 3,383
CHF 30,320 30,415 31,250
JPY 172.06 172.37 180.06
THB 741.37 750.53 803
AUD 16,301 16,360 16,802
CAD 18,319 18,377 18,874
SGD 19,568 19,629 20,240
SEK - 2,602 2,694
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,801 3,932
NOK - 2,444 2,530
CNY - 3,567 3,665
RUB - - -
NZD 14,874 15,012 15,443
KRW 17.06 17.79 19.1
EUR 28,394 28,417 29,632
TWD 773.78 - 936.8
MYR 5,593.95 - 6,313.23
SAR - 6,807.61 7,165.5
KWD - 82,156 87,497
XAU - - -
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,760 25,770 26,110
EUR 28,231 28,344 29,444
GBP 33,594 33,729 34,696
HKD 3,263 3,276 3,382
CHF 30,184 30,305 31,204
JPY 171.27 171.96 179
AUD 16,251 16,316 16,845
SGD 19,545 19,623 20,158
THB 757 760 793
CAD 18,245 18,318 18,827
NZD 14,989 15,495
KRW 17.49 19.26
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25770 25770 26130
AUD 16253 16353 16921
CAD 18232 18332 18886
CHF 30368 30398 31283
CNY 0 3574 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28486 28586 29358
GBP 33728 33778 34896
HKD 0 3355 0
JPY 171.97 172.97 179.53
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15056 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19522 19652 20379
THB 0 724 0
TWD 0 845 0
XAU 11800000 11800000 12000000
XBJ 11000000 11000000 12000000
Cập nhật: 13/05/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,180
USD20 25,770 25,820 26,180
USD1 25,770 25,820 26,180
AUD 16,258 16,408 17,478
EUR 28,491 28,641 29,821
CAD 18,163 18,263 19,579
SGD 19,580 19,730 20,205
JPY 172.28 173.78 178.47
GBP 33,784 33,934 34,723
XAU 11,798,000 0 12,002,000
CNY 0 3,457 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 13/05/2025 15:00