Việt Nam đã vượt lên Trung Quốc, vào top đầu thế giới về tính hấp dẫn đầu tư

11:23 | 04/12/2018

290 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ông Vũ Tiến Lộc cho rằng, Việt Nam đã làm được nhiều việc trong cải thiện môi trường kinh doanh, theo khảo sát ý kiến DN, VN đã trở thành địa điểm đầu tư hấp dẫn vượt lên cả Trung Quốc. Nhưng tốc độ cải thiện môi trường kinh doanh vẫn chưa đạt yêu cầu, chưa lot top 5 ASEAN và ở cuối bảng các nước CTTPP.
Việt Nam đã vượt lên Trung Quốc, vào top đầu thế giới về tính hấp dẫn đầu tư
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam VBF là hoạt động thường niên, diễn ra định kỳ 2 lần/năm.

"Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn"

Sáng 4/11, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) 2018 với chủ đề: "Chia sẻ cơ hội trong xu thế chuyển dịch thương mại toàn cầu" được tổ chức với sự tham gia của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng nhiều quan chức cấp cao và đại diện các Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

Phát biểu tại diễn đàn, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh Việt Nam sẽ phải đối diện với nhiều thách thức như: sức ép lạm phát, chất lượng tăng trưởng tăng nhưng chưa đáp ứng nhu cầu, năng suất lao động còn thấp, nguy cơ tụt hậu cũng như biến đổi khí hậu...

"Để vượt qua những thách thức này, Việt Nam cần phải đổi mới, cải cách toàn diện và theo đuổi chính sách phát triển bền vững. Việt Nam cũng cần phát triển đồng bộ thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản, cơ cấu lại nền kinh tế, nghiên cứu ứng phó đối với sự biến đổi bất ổn của thương mại thế giới", ông Dũng nói .

Nói về tính bất ổn trong thương mại toàn cầu, ông Kyle F. Kelhofer, Giám đốc quốc gia cấp cao khu vực Việt Nam, Lào, Campuchia của Tổ chức Tài chính quốc tế cho rằng, thách thức cần phải chuyển hóa thành cơ hội. Theo đó, các quốc gia cần tiến dần đến việc tăng cường hợp tác hơn nữa.

"Việt Nam tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới sẽ mở ra một cách cửa quan trọng. Cánh cửa này không chỉ là cơ hội giao thương, kết nối mà còn là chất xúc tác để nền kinh tế 90 triệu dân cải cách", ông Kyle nói và nhấn mạnh rằng Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn.

Dù vậy, ông cũng đặt vấn đề về hành động tiếp theo của Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp trong việc thu hút dòng vốn FDI không chỉ về số lượng mà còn cả chất lượng. Giải pháp được ông nhắc đến bao gồm việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng lao động, chuỗi cung ứng liên kết, thúc đẩy môi trường đầu tư kinh doanh và cả hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.

"Việt Nam hiện đại đang hướng tới sự thịnh vượng. Đây sẽ là giai đoạn tiếp theo của đất nước này", ông nói.

Còn theo ông Tomaso Andreatta, đồng Chủ tịch VBF, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm để hướng tới phát triển nhanh và bền vững, trong đó, cần tập trung nguồn lực cho cơ sở hạ tầng.

"Chính phủ cần đầu tư mạnh hơn vào cơ sở hạ tầng bởi các nhà đầu tư hiện có sự quan tâm rất lớn tới vấn đề này. Chúng ta cần tìm cách mở thị trường để có các khoản đầu tư phù hợp hơn cho hạ tầng. Ngoài ra còn cả năng lượng mới, logistic", ông nói.

Chuyển động ấn tượng nhưng chưa đạt kỳ vọng

Trong bài viết nhân sự kiện lần này, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc cho rằng, năm 2018 Việt Nam năm đã ghi nhận những chuyển biến rất tích cực về môi trường kinh doanh của Việt Nam. Trước đó, trao đổi với báo chí, ông còn cho biết, năm 2019, Việt Nam được xem là một địa điểm hấp dẫn đầu tư hàng đầu trên thế giới, lần đầu tiên vượt Trung Quốc và nhiều nước khác.

"Đa số các doanh nghiệp theo khảo sát của VCCI gần nhất đều cảm nhận rõ điều này. Nhưng những chuyển động dù rất ấn tượng nhưng vẫn chưa đạt được như kỳ vọng của doanh nghiệp. Đáng chú ý, mức độ chuyển biến không đồng đều, có sự chênh lệch khá lớn giữa các lĩnh vực và địa phương", ông Lộc nói.

Theo ông Lộc, việc cắt giảm điều kiện kinh doanh có nhiều tín hiệu tích cực, đa số các bộ ngành hoàn thành vượt yêu cầu cắt giảm và đơn giản hoá tối thiểu 50% điều kiện kinh doanh tính đến 31/10 vừa rồi. Tuy nhiên kết quả khảo sát vẫn cho thấy, vẫn có 58% doanh nghiệp đang phải xin các loại giấy phép kinh doanh có điều kiện và 42% doanh nghiệp trong số đó cho biết họ gặp khó khăn khi xin phép.

Việc cải cách kiểm tra chuyên ngành có tiến bộ nhưng tính đến tháng 9/2018 mới chỉ có 68 thủ tục kiểm tra chuyên ngành có thể thực hiện được trên Cổng thông tin một cửa quốc gia và cũng mới có một thủ tục (khai báo hoá chất) là thực hiện điện tử hoàn toàn, các thủ tục khác vẫn nộp thêm bản giấy.

Công tác thanh, kiểm tra có chuyển biến tích cực, tỷ lệ doanh nghiệp bị thanh kiểm tra từ 2 lần giảm từ 48% xuống 40%, tỷ lệ doanh nghiệp cho biết có sự trùng lặp về nội dung giữa các cuộc thanh kiểm tra từ 24% giảm còn 14% chỉ sau một năm. Điều này cho thấy Chỉ thị 20 chấn chỉnh công tác thanh tra kiểm tra mà Thủ tướng Chính phủ ban hành tháng 5 năm 2017 đã phát huy tác dụng.

Dẫn báo cáo Doing Business 2019 về môi trường kinh doanh mà WB công bố vừa rồi, ông Lộc cho hay, Việt Nam dù tăng so với chính mình nhưng mức độ thay đổi này vẫn còn chậm so với các quốc gia khác. Thậm chí, nếu so sánh trong khu vực ASEAN thì Việt Nam vẫn chưa lọt được vào top 4 nước đứng đầu. Với vị trí 69, Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá xa so với Singapore (thứ 2), Malaysia (thứ 15) hay Thái Lan (thứ 27).

Đặc biệt nếu so sánh với 10 quốc gia khác trong Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Toàn diện Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) thì Việt Nam là quốc gia đứng cuối cùng, sau cả Peru hay Chilê. Và đáng lưu ý, điểm số và thứ hạng của 10 chỉ số thành phần của Doing Bussiness năm nay thì chỉ có 4 lĩnh vực tăng thứ hạng, 5 lĩnh vực tăng điểm số. Như vậy, để thứ hạng Việt Nam tăng mạnh mẽ hơn nữa thì cần có sự chuyển động đồng đều và mạnh mẽ của tất cả các ngànhvà lĩnh vực.

"Như vậy, chúng ta đã thấy có rất nhiều sự cải thiện, tuy vậy không gian cải cách vẫn còn rất lớn. Việt Nam đã làm được nhiều việc trong cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng tốc độ thay đổi vẫn chưa đạt yêu cầu. Chính vì vậy, Việt Nam cần mạnh mẽ hơn nữa trong ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các ngành, các lĩnh vực", ông nhấn mạnh.

Ông Lộc cũng cho hay, vừa rồi, Việt Nam có thêm một tin vui, theo khảo sát của PWC được tiến hành với 1.200 CEO hàng đầu trong khu vực châu Á Thái Bình Dương, Việt Nam năm thứ 2 liên tiếp vượt Trung Quốc trở thành nền kinh tế có triển vọng thu hút FDI nhiều nhất thế giới.

"Có thể nói một trong những lý do quan trọng để Việt Nam trở thành điểm đến hàng đầu là niềm tin, sức sống từ các FTA. Theo kết quả khảo sát của PWC, 34-40% các doanh nghiệp cho rằng doanh thu sẽ tăng do FTA. Như vậy, bên cạnh cải cách thể chế thì mở cửa và tham gia FTA là điều kiện quan trọng để nhà đầu tư tin tưởng vào môi trường kinh doanh tại Việt Nam", ông Lộc nhấn mạnh.

Theo Dân trí

Tài sản vợ chồng bầu Kiên tăng gần 150 tỷ đồng trong ngày đầu tuần
Người Việt “đội sổ” năng suất lao động: Hấp dẫn đầu tư nhờ… đông?
Nhà đầu tư Trung Quốc tăng cường mua doanh nghiệp Việt
Năm 2019 nên đổ tiền vào đâu?

  • bidv-tiet-kiem-mua-vang-ron-rang-tai-loc
  • nang-luong-cho-phat-trien
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • vietinbank

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC HCM 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 68,850 ▲450K 69,450 ▲550K
Nguyên liệu 999 - HN 68,750 ▲450K 69,350 ▲550K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 ▲200K 81,000 ▲200K
Cập nhật: 28/03/2024 21:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
TPHCM - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Hà Nội - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Hà Nội - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Miền Tây - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Miền Tây - SJC 79.000 ▲200K 81.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - PNJ 68.500 ▲300K 69.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.100 ▲300K 81.100 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 68.500 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 68.400 ▲300K 69.200 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 50.650 ▲220K 52.050 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 39.230 ▲170K 40.630 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 27.540 ▲130K 28.940 ▲130K
Cập nhật: 28/03/2024 21:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 6,835 ▲30K 6,990 ▲30K
Trang sức 99.9 6,825 ▲30K 6,980 ▲30K
NT, 3A, ĐV Thái Bình 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Nghệ An 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NT, 3A, ĐV Hà Nội 6,900 ▲30K 7,020 ▲30K
NL 99.99 6,830 ▲30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ TB 6,830 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Nghệ An 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Miếng SJC Hà Nội 7,930 ▲40K 8,115 ▲35K
Cập nhật: 28/03/2024 21:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 ▲100K 81,000 ▲100K
SJC 5c 79,000 ▲100K 81,020 ▲100K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 ▲100K 81,030 ▲100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 68,500 ▲250K 69,750 ▲300K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 68,500 ▲250K 69,850 ▲300K
Nữ Trang 99.99% 68,400 ▲250K 69,250 ▲300K
Nữ Trang 99% 67,064 ▲297K 68,564 ▲297K
Nữ Trang 68% 45,245 ▲204K 47,245 ▲204K
Nữ Trang 41.7% 27,030 ▲125K 29,030 ▲125K
Cập nhật: 28/03/2024 21:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,660.26 15,818.45 16,326.56
CAD 17,743.11 17,922.33 18,498.03
CHF 26,676.40 26,945.86 27,811.41
CNY 3,357.08 3,390.99 3,500.45
DKK - 3,515.18 3,649.93
EUR 26,018.34 26,281.16 27,446.04
GBP 30,390.95 30,697.93 31,684.00
HKD 3,086.91 3,118.09 3,218.25
INR - 296.34 308.20
JPY 158.69 160.29 167.96
KRW 15.84 17.60 19.20
KWD - 80,359.61 83,575.55
MYR - 5,182.84 5,296.09
NOK - 2,236.99 2,332.06
RUB - 255.43 282.77
SAR - 6,588.96 6,852.65
SEK - 2,268.45 2,364.86
SGD 17,871.79 18,052.31 18,632.18
THB 599.73 666.36 691.91
USD 24,580.00 24,610.00 24,950.00
Cập nhật: 28/03/2024 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 15,816 15,836 16,436
CAD 17,971 17,981 18,681
CHF 26,934 26,954 27,904
CNY - 3,362 3,502
DKK - 3,504 3,674
EUR #25,949 26,159 27,449
GBP 30,780 30,790 31,960
HKD 3,040 3,050 3,245
JPY 159.74 159.89 169.44
KRW 16.18 16.38 20.18
LAK - 0.68 1.38
NOK - 2,211 2,331
NZD 14,556 14,566 15,146
SEK - 2,250 2,385
SGD 17,815 17,825 18,625
THB 627.06 667.06 695.06
USD #24,555 24,595 25,015
Cập nhật: 28/03/2024 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,610.00 24,635.00 24,955.00
EUR 26,298.00 26,404.00 27,570.00
GBP 30,644.00 30,829.00 31,779.00
HKD 3,107.00 3,119.00 3,221.00
CHF 26,852.00 26,960.00 27,797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15,877.00 15,941.00 16,428.00
SGD 18,049.00 18,121.00 18,658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17,916.00 17,988.00 18,519.00
NZD 14,606.00 15,095.00
KRW 17.59 19.18
Cập nhật: 28/03/2024 21:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24593 24643 24983
AUD 15883 15933 16343
CAD 18015 18065 18469
CHF 27159 27209 27624
CNY 0 3394.2 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3490 0
EUR 26474 26524 27027
GBP 31019 31069 31522
HKD 0 3115 0
JPY 161.65 162.15 166.68
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 18.4 0
LAK 0 1.0264 0
MYR 0 5340 0
NOK 0 2330 0
NZD 0 14574 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18196 18196 18548
THB 0 638.7 0
TWD 0 777 0
XAU 7930000 7930000 8070000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 28/03/2024 21:45