Việt Nam đã vượt lên Trung Quốc, vào top đầu thế giới về tính hấp dẫn đầu tư

11:23 | 04/12/2018

291 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ông Vũ Tiến Lộc cho rằng, Việt Nam đã làm được nhiều việc trong cải thiện môi trường kinh doanh, theo khảo sát ý kiến DN, VN đã trở thành địa điểm đầu tư hấp dẫn vượt lên cả Trung Quốc. Nhưng tốc độ cải thiện môi trường kinh doanh vẫn chưa đạt yêu cầu, chưa lot top 5 ASEAN và ở cuối bảng các nước CTTPP.
Việt Nam đã vượt lên Trung Quốc, vào top đầu thế giới về tính hấp dẫn đầu tư
Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam VBF là hoạt động thường niên, diễn ra định kỳ 2 lần/năm.

"Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn"

Sáng 4/11, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) 2018 với chủ đề: "Chia sẻ cơ hội trong xu thế chuyển dịch thương mại toàn cầu" được tổ chức với sự tham gia của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng nhiều quan chức cấp cao và đại diện các Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

Phát biểu tại diễn đàn, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh Việt Nam sẽ phải đối diện với nhiều thách thức như: sức ép lạm phát, chất lượng tăng trưởng tăng nhưng chưa đáp ứng nhu cầu, năng suất lao động còn thấp, nguy cơ tụt hậu cũng như biến đổi khí hậu...

"Để vượt qua những thách thức này, Việt Nam cần phải đổi mới, cải cách toàn diện và theo đuổi chính sách phát triển bền vững. Việt Nam cũng cần phát triển đồng bộ thị trường vốn, chứng khoán, bất động sản, cơ cấu lại nền kinh tế, nghiên cứu ứng phó đối với sự biến đổi bất ổn của thương mại thế giới", ông Dũng nói .

Nói về tính bất ổn trong thương mại toàn cầu, ông Kyle F. Kelhofer, Giám đốc quốc gia cấp cao khu vực Việt Nam, Lào, Campuchia của Tổ chức Tài chính quốc tế cho rằng, thách thức cần phải chuyển hóa thành cơ hội. Theo đó, các quốc gia cần tiến dần đến việc tăng cường hợp tác hơn nữa.

"Việt Nam tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới sẽ mở ra một cách cửa quan trọng. Cánh cửa này không chỉ là cơ hội giao thương, kết nối mà còn là chất xúc tác để nền kinh tế 90 triệu dân cải cách", ông Kyle nói và nhấn mạnh rằng Việt Nam đang là điểm đến được lựa chọn.

Dù vậy, ông cũng đặt vấn đề về hành động tiếp theo của Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp trong việc thu hút dòng vốn FDI không chỉ về số lượng mà còn cả chất lượng. Giải pháp được ông nhắc đến bao gồm việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng lao động, chuỗi cung ứng liên kết, thúc đẩy môi trường đầu tư kinh doanh và cả hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.

"Việt Nam hiện đại đang hướng tới sự thịnh vượng. Đây sẽ là giai đoạn tiếp theo của đất nước này", ông nói.

Còn theo ông Tomaso Andreatta, đồng Chủ tịch VBF, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm để hướng tới phát triển nhanh và bền vững, trong đó, cần tập trung nguồn lực cho cơ sở hạ tầng.

"Chính phủ cần đầu tư mạnh hơn vào cơ sở hạ tầng bởi các nhà đầu tư hiện có sự quan tâm rất lớn tới vấn đề này. Chúng ta cần tìm cách mở thị trường để có các khoản đầu tư phù hợp hơn cho hạ tầng. Ngoài ra còn cả năng lượng mới, logistic", ông nói.

Chuyển động ấn tượng nhưng chưa đạt kỳ vọng

Trong bài viết nhân sự kiện lần này, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc cho rằng, năm 2018 Việt Nam năm đã ghi nhận những chuyển biến rất tích cực về môi trường kinh doanh của Việt Nam. Trước đó, trao đổi với báo chí, ông còn cho biết, năm 2019, Việt Nam được xem là một địa điểm hấp dẫn đầu tư hàng đầu trên thế giới, lần đầu tiên vượt Trung Quốc và nhiều nước khác.

"Đa số các doanh nghiệp theo khảo sát của VCCI gần nhất đều cảm nhận rõ điều này. Nhưng những chuyển động dù rất ấn tượng nhưng vẫn chưa đạt được như kỳ vọng của doanh nghiệp. Đáng chú ý, mức độ chuyển biến không đồng đều, có sự chênh lệch khá lớn giữa các lĩnh vực và địa phương", ông Lộc nói.

Theo ông Lộc, việc cắt giảm điều kiện kinh doanh có nhiều tín hiệu tích cực, đa số các bộ ngành hoàn thành vượt yêu cầu cắt giảm và đơn giản hoá tối thiểu 50% điều kiện kinh doanh tính đến 31/10 vừa rồi. Tuy nhiên kết quả khảo sát vẫn cho thấy, vẫn có 58% doanh nghiệp đang phải xin các loại giấy phép kinh doanh có điều kiện và 42% doanh nghiệp trong số đó cho biết họ gặp khó khăn khi xin phép.

Việc cải cách kiểm tra chuyên ngành có tiến bộ nhưng tính đến tháng 9/2018 mới chỉ có 68 thủ tục kiểm tra chuyên ngành có thể thực hiện được trên Cổng thông tin một cửa quốc gia và cũng mới có một thủ tục (khai báo hoá chất) là thực hiện điện tử hoàn toàn, các thủ tục khác vẫn nộp thêm bản giấy.

Công tác thanh, kiểm tra có chuyển biến tích cực, tỷ lệ doanh nghiệp bị thanh kiểm tra từ 2 lần giảm từ 48% xuống 40%, tỷ lệ doanh nghiệp cho biết có sự trùng lặp về nội dung giữa các cuộc thanh kiểm tra từ 24% giảm còn 14% chỉ sau một năm. Điều này cho thấy Chỉ thị 20 chấn chỉnh công tác thanh tra kiểm tra mà Thủ tướng Chính phủ ban hành tháng 5 năm 2017 đã phát huy tác dụng.

Dẫn báo cáo Doing Business 2019 về môi trường kinh doanh mà WB công bố vừa rồi, ông Lộc cho hay, Việt Nam dù tăng so với chính mình nhưng mức độ thay đổi này vẫn còn chậm so với các quốc gia khác. Thậm chí, nếu so sánh trong khu vực ASEAN thì Việt Nam vẫn chưa lọt được vào top 4 nước đứng đầu. Với vị trí 69, Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá xa so với Singapore (thứ 2), Malaysia (thứ 15) hay Thái Lan (thứ 27).

Đặc biệt nếu so sánh với 10 quốc gia khác trong Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Toàn diện Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) thì Việt Nam là quốc gia đứng cuối cùng, sau cả Peru hay Chilê. Và đáng lưu ý, điểm số và thứ hạng của 10 chỉ số thành phần của Doing Bussiness năm nay thì chỉ có 4 lĩnh vực tăng thứ hạng, 5 lĩnh vực tăng điểm số. Như vậy, để thứ hạng Việt Nam tăng mạnh mẽ hơn nữa thì cần có sự chuyển động đồng đều và mạnh mẽ của tất cả các ngànhvà lĩnh vực.

"Như vậy, chúng ta đã thấy có rất nhiều sự cải thiện, tuy vậy không gian cải cách vẫn còn rất lớn. Việt Nam đã làm được nhiều việc trong cải thiện môi trường kinh doanh, nhưng tốc độ thay đổi vẫn chưa đạt yêu cầu. Chính vì vậy, Việt Nam cần mạnh mẽ hơn nữa trong ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các ngành, các lĩnh vực", ông nhấn mạnh.

Ông Lộc cũng cho hay, vừa rồi, Việt Nam có thêm một tin vui, theo khảo sát của PWC được tiến hành với 1.200 CEO hàng đầu trong khu vực châu Á Thái Bình Dương, Việt Nam năm thứ 2 liên tiếp vượt Trung Quốc trở thành nền kinh tế có triển vọng thu hút FDI nhiều nhất thế giới.

"Có thể nói một trong những lý do quan trọng để Việt Nam trở thành điểm đến hàng đầu là niềm tin, sức sống từ các FTA. Theo kết quả khảo sát của PWC, 34-40% các doanh nghiệp cho rằng doanh thu sẽ tăng do FTA. Như vậy, bên cạnh cải cách thể chế thì mở cửa và tham gia FTA là điều kiện quan trọng để nhà đầu tư tin tưởng vào môi trường kinh doanh tại Việt Nam", ông Lộc nhấn mạnh.

Theo Dân trí

Tài sản vợ chồng bầu Kiên tăng gần 150 tỷ đồng trong ngày đầu tuần
Người Việt “đội sổ” năng suất lao động: Hấp dẫn đầu tư nhờ… đông?
Nhà đầu tư Trung Quốc tăng cường mua doanh nghiệp Việt
Năm 2019 nên đổ tiền vào đâu?

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,820 ▲50K 11,340
Trang sức 99.9 10,810 ▲50K 11,330
NL 99.99 10,820 ▲50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,820 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,050 ▲50K 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,050 ▲50K 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 23:00