Vì sao Trung Quốc không còn được hưởng lợi khi đồng nhân dân tệ suy yếu?

21:34 | 31/08/2022

229 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đồng nhân dân tệ đã giảm xuống mức thấp nhất trong 2 năm so với đồng USD. Tuy nhiên, giới phân tích lại cho rằng điều này không mang lại lợi thế xuất khẩu cho Trung Quốc.

Các nhà phân tích cho rằng, mặc dù đồng nhân dân tệ xuống mức thấp nhất trong 2 năm so với đồng USD trong ngày 29/8, song các đồng tiền khác ở châu Á còn chứng kiến sự sụt giảm mạnh hơn.

Do đó, sự phá giá này có thể gây thêm rủi ro tài chính trong khu vực cũng như làm tổn hại đến khả năng cạnh tranh về xuất khẩu của Trung Quốc.

Sau bài phát biểu mang tính "diều hâu" của Chủ tịch Fed Jerome Powell, đồng nhân dân tệ của Trung Quốc đã giảm mạnh so với đồng USD, đạt ngưỡng 6,9 tệ đổi một USD, lần đầu tiên kể từ tháng 8/2020.

Kể từ sau động thái bất ngờ cắt giảm lãi suất của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC), đồng nhân dân tệ đã mất khoảng 2.000 điểm cơ bản so với đồng USD.

Vì sao Trung Quốc không còn được hưởng lợi khi đồng nhân dân tệ suy yếu? - 1
Đồng nhân dân tệ đã giảm xuống mức thấp nhất trong 2 năm so với đồng USD (Ảnh: May Tse/SCMP).

Trong phiên hôm qua (30/8), tỷ giá hối đoái của đồng nhân dân tệ tại Trung Quốc đã hồi phục 230 pips (viết tắt của điểm phần trăm, đơn vị đo sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái của hai đồng tiền) so với phiên trước đó, lên mức 6,898 nhân dân tệ đổi 1 USD. Đồng nhân dân tệ ở Trung Quốc được phép giao dịch trong biên độ 2% so với mức giá tham chiếu trong ngày.

Tuy nhiên, so với các đồng tiền lớn khác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, sự giảm giá của đồng nhân dân tệ được cho là nhẹ hơn. Đồng won của Hàn Quốc hôm đầu tuần đã giảm xuống mức thấp nhất so với đồng USD kể từ tháng 4/2009 - thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang hoành hành.

Theo báo cáo của Viện Tài chính Quốc tế (IIF), trong tháng 7, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục giảm việc nắm giữ trái phiếu Trung Quốc, xuống khoảng 3 tỷ USD. Cũng trong tháng này, thị trường chứng khoán Trung Quốc cũng chứng kiến 3,5 tỷ USD bị rút ra khỏi thị trường, lần đầu tiên sau 4 tháng.

Bà Katrina Ell, chuyên gia kinh tế cấp cao tại Moody's Analytics cho rằng, các đồng tiền ở những thị trường mới nổi của châu Á đang chịu áp lực mới sau tuyên bố không khoan nhượng với lạm phát của ông Powell. Lãi suất tăng có xu hướng khiến đồng USD mạnh hơn.

"Khả năng chênh lệch lãi suất giữa Mỹ và châu Á sẽ ngày càng rộng hơn. Điều này sẽ tiếp tục gia tăng áp lực khiến các đồng tiền ở châu Á đi xuống", bà nói.

Yuting Shao, chiến lược gia vĩ mô tại State Street Global Markets, cho rằng sự suy yếu của các đồng tiền châu Á sẽ tạo ra nhiều tác động hơn đối với lạm phát nhập khẩu, rủi ro tháo vốn và buộc các ngân hàng trung ương phải cân bằng giữa việc tăng lãi suất mà không gây nguy hiểm cho sự tăng trưởng kinh tế.

Ông Wei Hongxu, một nhà nghiên cứu của tổ chức tư vấn độc lập đa quốc gia Anbound, cũng cho biết, khi đồng USD mạnh lên và các đồng tiền lớn khác như đồng yên Nhật, đồng euro cũng giảm giá, thì sự suy yếu của đồng nhân dân tệ sẽ nhẹ hơn. "Điều này, ở một mức độ nào đó, đã làm giảm áp lực từ đồng USD lên đồng nhân dân tệ", ông nói.

Theo ông, sự giảm giá của đồng nhân dân tệ có thể mang lại ích lợi cho xuất khẩu của Trung Quốc dù cũng làm gia tăng biến động trên thị trường vốn nước này.

Tuy nhiên, các chuyên gia phân tích từ China International Capital Corporation (CICC) lại cho rằng, tác động tích cực của việc đồng nhân dân tệ giảm giá đối với xuất khẩu của Trung Quốc dường như đã yếu hơn kể từ năm 2017, một phần do căng thẳng thương mại với Mỹ và đại dịch Covid-19.

"Ngay cả khi chúng ta chấp nhận logic rằng phá giá đồng nội tệ sẽ thúc đẩy xuất khẩu, song chúng ta cần chú ý đến mức độ phá giá so với các nền kinh tế khác. Đó là liệu có còn cái gọi là phá giá cạnh tranh hay không", các nhà phân tích của CICC nói.

CICC cho rằng, đồng nhân dân tệ hiện vẫn mạnh hơn so với các đồng tiền của nhiều nền kinh tế định hướng xuất khẩu lớn khác và hàng hóa sản xuất tại Trung Quốc đang trở nên đắt đỏ hơn so với các đối thủ khác kể từ khi đại dịch bắt đầu.

VND giữ giá so với USD

Theo công ty cung cấp dữ liệu tài chính Trung Quốc Wind, kể từ đầu năm đến nay, đồng won đã giảm hơn 13% so với đồng USD. Trong khi đó, đồng yên Nhật và đồng baht Thái giảm lần lượt khoảng 20% và 9,8%. Tuy nhiên, tiền Việt Nam chỉ giảm 0,3%.

Trong khi đó, đồng nhân dân tệ giảm khoảng 8,6% và ngay cả đồng euro cũng mất giá kỷ lục khi giảm khoảng 12%.

Các chuyên gia cho rằng sự sụt giảm sâu của đồng yên Nhật trong nửa đầu năm nay có thể khiến các nền kinh tế định hướng xuất khẩu phải phá giá đồng tiền của họ để đảm bảo khả năng cạnh tranh về xuất khẩu. Hôm 29/8, đồng yên Nhật có lúc đã xuống chạm mức thấp nhất 24 năm được ghi nhận hồi giữa tháng 7.

"Ở Đông Á, cần chú ý đến tác động của việc phá giá cạnh tranh do đồng yên Nhật gây ra, bởi điều này có thể gây ra những xáo trộn cho thương mại và đầu tư trong khu vực", ông Wei nói.

Tuy nhiên, theo ông, rủi ro về thương mại là hạn chế vì Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Đông Nam Á có vị thế khác nhau trong chuỗi cung ứng và công nghiệp. Nhưng sẽ có nhiều vấn đề hơn đối với dòng vốn và các lĩnh vực đầu tư. "Sự phá giá của đồng yên Nhật và đồng won Hàn Quốc, cũng như đồng nhân dân tệ Trung Quốc, có thể làm trầm trọng thêm rủi ro cho dòng vốn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương", ông nói.

Theo Dân trí

Điều tồi tệ vẫn chưa tới, Mỹ cần phép màu mới tránh được suy thoáiĐiều tồi tệ vẫn chưa tới, Mỹ cần phép màu mới tránh được suy thoái
Nhận diện khó khăn trong triển khai hỗ trợ lãi suất 2%Nhận diện khó khăn trong triển khai hỗ trợ lãi suất 2%
Thúc đẩy thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất trong cả nướcThúc đẩy thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất trong cả nước

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,000 122,000
AVPL/SJC HCM 120,000 122,000
AVPL/SJC ĐN 120,000 122,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,170 11,450
Nguyên liệu 999 - HN 11,160 11,440
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 116.600
TPHCM - SJC 120.000 122.000
Hà Nội - PNJ 114.000 116.600
Hà Nội - SJC 120.000 122.000
Đà Nẵng - PNJ 114.000 116.600
Đà Nẵng - SJC 120.000 122.000
Miền Tây - PNJ 114.000 116.600
Miền Tây - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 116.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 115.670
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 115.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 87.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 68.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 48.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 106.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 71.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 75.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 79.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 43.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 38.600
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,290 11,740
Trang sức 99.9 11,280 11,730
NL 99.99 11,100
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,500 11,800
Miếng SJC Thái Bình 12,000 12,200
Miếng SJC Nghệ An 12,000 12,200
Miếng SJC Hà Nội 12,000 12,200
Cập nhật: 11/05/2025 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16118 16385 16969
CAD 18096 18371 18995
CHF 30572 30948 31621
CNY 0 3358 3600
EUR 28572 28839 29883
GBP 33740 34129 35080
HKD 0 3207 3411
JPY 171 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15024 15625
SGD 19454 19734 20278
THB 703 766 820
USD (1,2) 25699 0 0
USD (5,10,20) 25738 0 0
USD (50,100) 25766 25800 26155
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 33,951 34,043 34,943
HKD 3,282 3,292 3,391
CHF 30,810 30,906 31,767
JPY 175.11 175.43 183.25
THB 749.74 759 812.07
AUD 16,397 16,456 16,901
CAD 18,405 18,464 18,964
SGD 19,652 19,713 20,338
SEK - 2,632 2,724
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,849 3,981
NOK - 2,452 2,538
CNY - 3,548 3,644
RUB - - -
NZD 14,981 15,120 15,554
KRW 17.19 17.93 19.27
EUR 28,755 28,778 30,006
TWD 777.95 - 941.86
MYR 5,633.75 - 6,359.66
SAR - 6,810.25 7,168.24
KWD - 82,426 87,642
XAU - - -
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,557 28,672 29,776
GBP 33,746 33,882 34,851
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 30,669 30,792 31,690
JPY 173.90 174.60 181.74
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,615 19,694 20,232
THB 763 766 800
CAD 18,311 18,385 18,897
NZD 15,042 15,549
KRW 17.63 19.42
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16257 16357 16925
CAD 18304 18404 18957
CHF 30785 30815 31712
CNY 0 3549.6 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28845 28945 29720
GBP 33935 33985 35098
HKD 0 3355 0
JPY 175.09 176.09 182.64
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15080 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19610 19740 20471
THB 0 730.9 0
TWD 0 845 0
XAU 12000000 12000000 12150000
XBJ 12000000 12000000 12150000
Cập nhật: 11/05/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,170
USD20 25,780 25,830 26,170
USD1 25,780 25,830 26,170
AUD 16,311 16,461 17,531
EUR 28,899 29,049 30,224
CAD 18,245 18,345 19,662
SGD 19,685 19,835 20,311
JPY 175.65 177.15 181.84
GBP 34,012 34,162 34,952
XAU 11,649,000 0 12,051,000
CNY 0 3,432 0
THB 0 766 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 11/05/2025 12:00