Vì sao nhiều cường quốc rơi vào tình cảnh "khát” năng lượng

17:00 | 01/10/2021

2,061 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Cuộc khủng hoảng năng lượng đang đẩy châu Âu, Trung Quốc và nhiều quốc gia vào tình cảnh thiếu điện, thiếu nhiên liệu,… Dù phải bỏ ra chi phí khổng lồ để mua than, khí với giá cao kỷ lục, nhưng bài toán cân bằng năng lượng chưa thể có lời giải ngay.

Tình cảnh khó khăn của Châu Âu

Sau cơn suy thoái kinh tế do tác động của đại dịch COVID-19, nền kinh tế toàn cầu đang dần phục hồi, nhiều ngành sản xuất hàng hoá trở lại hoạt động, kéo theo nhu cầu tiêu thụ nhiều năng lượng. Tuy nhiên, tăng trưởng ngành năng lượng đã không theo kịp nhu cầu sử dụng tăng đột biến này.

Tình trạng thiếu hụt năng lượng nghiêm trọng bắt đầu nổi lên ở châu Âu hồi đầu tháng 9, khi lượng khí đốt dự trữ trong khu vực xuống thấp nhưng nguồn cung khí đốt cung cấp từ một số quốc gia, đặc biệt từ Nga, Na Uy bị hạn chế. Tờ Bloomberg đưa tin ngày 27/9, giá khí đốt tại châu Âu đã tăng gần 500% trong năm qua.

Tim Gore, chuyên gia thuộc Viện Chính sách Môi trường châu Âu, cho biết ngoài những lý do trên, nhiều yếu tố khác đang khiến vấn đề thêm trầm trọng. "Chúng tôi đã thành công trong việc đưa than đá ra khỏi hệ thống sản xuất điện, nhưng nguồn năng lượng từ gió gần đây lại sụt giảm vì thời tiết", Gore giải thích.

Liên minh châu Âu (EU) đang dần cắt giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Năm 2020, năng lượng tái tạo lần đầu tiên trở thành nguồn điện chính của khối này. Tuy nhiên, năng lượng tái tạo chưa đủ sức để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tăng vọt. Hiện, các công ty điện lực ở châu Âu buộc phải chuyển qua sử dụng than để sản xuất điện, đẩy giá than tăng nhanh và kéo theo giá điện tăng lên mức kỷ lục ở nhiều nước. Người dân ở các quốc gia như Tây Ban Nha, Ý, Pháp và Ba Lan hiện đang phải đối mặt với các hóa đơn năng lượng cao nhất mọi thời đại, làm tăng thêm những khủng hoảng kinh tế do đại dịch gây ra.

Trung Quốc: Thiếu điện, giá than cao kỷ lục

Trung Quốc – đất nước tiêu thụ than hàng đầu thế giới, cũng đang chật vật vì thiếu than. Trong những tháng gần đây, lượng than dự trữ ở các nhà máy nhiệt điện than ở Trung Quốc xuống thấp, khiến các nhà máy nhiệt điện chật vật tìm mua đủ than để duy trì hoạt động.

Khi nguồn cung than thiếu hụt, kéo theo tình trạng Trung Quốc đang thiếu điện nghiêm trọng. Cùng đó, các tiêu chuẩn về khí hậu ngày càng khắt khe, buộc nước này phải áp dụng rộng rãi nhiều biện pháp nhằm hạn chế lượng điện tiêu thụ.

Trung Quốc đã cam kết cắt giảm lượng năng lượng tiêu thụ trên mỗi đơn vị tăng trưởng kinh tế là khoảng 3% trong năm 2021, để có thể đạt được các mục tiêu khí hậu mà nước này đặt ra.

Vì sao nhiều cường quốc rơi vào tình cảnh
Công nhân trên lưới truyền tải điện Trung Quốc. Nguồn ảnh: https://foreignpolicy.com/

Theo tờ The guardian, có khoảng 20 tỉnh ở Trung Quốc đang phải trải qua cơn khủng hoảng thiếu điện năng, tuỳ theo các cấp độ. Nhiều công ty điện lực đã gửi thông báo đến các nhà máy tiêu thụ nhiều điện, trong đó yêu cầu các nhà máy chỉ sản xuất trong giờ thấp điểm vào đêm đến sáng sớm, hoặc đóng cửa hoàn toàn trong hai đến ba ngày một tuần. Nhiều nhà máy khác thì được yêu cầu đóng cửa cho đến một thời điểm xác định hoặc đến khi có thông báo mới.

Thiếu than, than giá cao là vấn đề Trung Quốc đang phải đối mặt. Giá than nhiệt cao ở Trung Quốc chạm mức cao nhất mọi thời đại, lên tới 212,92 đô-la mỗi tấn vào ngày 29/9, tạo áp lực khiến các công ty điện lực phải bù đắp chi phí nhiên liệu tăng thêm. Một số nhà máy nhiệt điện buộc phải đóng cửa để tiết kiệm chi phí và điều này làm tăng nguy cơ thiếu điện khi mùa đông tới.

Trung Quốc cũng đang đẩy mạnh gom mua LNG trên thị trường quốc tế để phục vụ cho nhu cầu sưởi ấm mùa đông, làm trầm trọng thêm tình trạng khan hiếm nguồn cung khí đốt trên toàn cầu.

Mỹ lo ngại thiếu nhiên liệu trong mùa đông tới

Các nhà xuất khẩu khí đốt của Mỹ đang được hưởng lợi nhờ nhu cầu tăng vọt từ châu Á và châu Âu khi các hoạt động kinh tế phục hồi, thúc đẩy nhu cầu điện.

Trong nửa đầu năm nay, Mỹ xuất khẩu gần 10% sản lượng LNG. Xuất khẩu than cũng Mỹ cũng đang tăng mạnh trong năm nay, đặc biệt là sau khi Trung Quốc hạn chế mua than của Úc do các căng thẳng ngoại giao. Trong quí 2, xuất khẩu than của Mỹ tăng 52,5% so với cùng kỳ năm ngoái, theo S&P Global Market Intelligence.

Tuy nhiên, nguồn cung than của Mỹ đang có dấu hiệu thắt chặt. Trong tháng 7, xuất khẩu than cốc của Mỹ đã giảm hơn 20% so với tháng 6, xuống còn 3,08 triệu tấn, theo dữ liệu của hãng tư vấn hàng hóa Argus. Nguồn cung than ở Mỹ bị hạn chế do các nhà sản xuất bị hạn chế tiếp cận nguồn vốn vay và tình trạng thiếu lao động.

Các kho dự trữ than ở Mỹ cũng đang vơi dần vì xuất khẩu tăng mạnh khi giá tăng gấp 3 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Cục Thông tin năng lượng Mỹ dự báo lượng than dự trữ của các nhà máy điện ở Mỹ có thể giảm về mức 61,3 triệu tấn vào cuối quí 4, thấp hơn 50% so với năm ngoái và thấp nhất kể từ năm 1997. Có nguy cơ các công ty điện lực ở Mỹ sẽ thiếu than để vận hành nếu mùa đông sắp tới trở nên khắc nghiệt hơn bình thường.

Cuộc cạnh tranh mua hàng hóa năng lượng của châu Âu và châu Á là tin tốt lành cho các nhà sản xuất nhiên liệu hóa thạch của Mỹ, nhưng có thể nhanh chóng trở thành tin xấu trong mùa đông sắp tới. Các dữ liệu cho thấy lượng LNG ở các kho dự trữ của Mỹ đang giảm và thấp hơn 7,1% so với mức trung bình của 5 năm. Lượng dầu dự trữ thương mại theo mùa vụ của Mỹ cũng đang ở mức thấp hơn 5% so với trước đại dịch.

Mới đây, Hiệp hội các nhà tiêu thụ năng lượng công nghiệp Mỹ (IECA), tổ chức đại diện cho các các công ty sản xuất hóa chất, thực phẩm và nguyên vật liệu ở Mỹ, đã gửi thư cho Bộ trưởng Năng lượng Mỹ Jennifer Granholm, hối thúc bộ này hành động ngay lập tức để hạn chế xuất khẩu LNG, giúp Mỹ có thể tích trữ đủ lượng khí đốt cần thiết trước khi mùa đông tới, tránh nguy cơ giá tăng vọt. Động thái này có thể làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt năng lượng ở nước ngoài.

Thực tế, khi vòng xoáy khủng hoảng năng lượng xảy ra, ảnh hưởng của nó không chỉ tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế, đời sống dân sinh từng quốc gia, mà hiệu ứng domino của nó còn lan tới nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Minh Anh

Các nhà xuất khẩu khí đốt Nga đang giao dịch với mức chiết khấu lớnCác nhà xuất khẩu khí đốt Nga đang giao dịch với mức chiết khấu lớn
Bài học từ khủng hoảng giá năng lượng tại châu ÂuBài học từ khủng hoảng giá năng lượng tại châu Âu
Thiếu hụt năng lượng toàn cầu: nguồn cung hay khủng hoảng khu vựcThiếu hụt năng lượng toàn cầu: nguồn cung hay khủng hoảng khu vực
Giá khí đốt ở châu Âu phá kỷ lục lịch sử, tăng lên trên 1.100 USD/1.000 m3Giá khí đốt ở châu Âu phá kỷ lục lịch sử, tăng lên trên 1.100 USD/1.000 m3
Vai trò của Trung Quốc, Mỹ, Nga trên thị trường dầu khí châu Á-Thái Bình Dương (Kỳ I)Vai trò của Trung Quốc, Mỹ, Nga trên thị trường dầu khí châu Á-Thái Bình Dương (Kỳ I)
Giá khí đốt tăng cao tác động đến một số ngành công nghiệp nặng và chuỗi cung ứngGiá khí đốt tăng cao tác động đến một số ngành công nghiệp nặng và chuỗi cung ứng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 120,000 122,000
AVPL/SJC HCM 120,000 122,000
AVPL/SJC ĐN 120,000 122,000
Nguyên liệu 9999 - HN 11,170 11,450
Nguyên liệu 999 - HN 11,160 11,440
Cập nhật: 11/05/2025 10:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 114.000 116.600
TPHCM - SJC 120.000 122.000
Hà Nội - PNJ 114.000 116.600
Hà Nội - SJC 120.000 122.000
Đà Nẵng - PNJ 114.000 116.600
Đà Nẵng - SJC 120.000 122.000
Miền Tây - PNJ 114.000 116.600
Miền Tây - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 114.000
Giá vàng nữ trang - SJC 120.000 122.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 114.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 114.000 116.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 114.000 116.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 113.880 116.380
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 113.170 115.670
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 112.940 115.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 80.030 87.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.800 68.300
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 41.110 48.610
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 104.310 106.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 63.720 71.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 68.380 75.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.870 79.370
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 36.340 43.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 31.100 38.600
Cập nhật: 11/05/2025 10:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,290 11,740
Trang sức 99.9 11,280 11,730
NL 99.99 11,100
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 11,100
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,500 11,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,500 11,800
Miếng SJC Thái Bình 12,000 12,200
Miếng SJC Nghệ An 12,000 12,200
Miếng SJC Hà Nội 12,000 12,200
Cập nhật: 11/05/2025 10:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16118 16385 16969
CAD 18096 18371 18995
CHF 30572 30948 31621
CNY 0 3358 3600
EUR 28572 28839 29883
GBP 33740 34129 35080
HKD 0 3207 3411
JPY 171 176 182
KRW 0 17 19
NZD 0 15024 15625
SGD 19454 19734 20278
THB 703 766 820
USD (1,2) 25699 0 0
USD (5,10,20) 25738 0 0
USD (50,100) 25766 25800 26155
Cập nhật: 11/05/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,800 25,800 26,160
USD(1-2-5) 24,768 - -
USD(10-20) 24,768 - -
GBP 33,951 34,043 34,943
HKD 3,282 3,292 3,391
CHF 30,810 30,906 31,767
JPY 175.11 175.43 183.25
THB 749.74 759 812.07
AUD 16,397 16,456 16,901
CAD 18,405 18,464 18,964
SGD 19,652 19,713 20,338
SEK - 2,632 2,724
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,849 3,981
NOK - 2,452 2,538
CNY - 3,548 3,644
RUB - - -
NZD 14,981 15,120 15,554
KRW 17.19 17.93 19.27
EUR 28,755 28,778 30,006
TWD 777.95 - 941.86
MYR 5,633.75 - 6,359.66
SAR - 6,810.25 7,168.24
KWD - 82,426 87,642
XAU - - -
Cập nhật: 11/05/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,780 25,790 26,130
EUR 28,557 28,672 29,776
GBP 33,746 33,882 34,851
HKD 3,275 3,288 3,394
CHF 30,669 30,792 31,690
JPY 173.90 174.60 181.74
AUD 16,260 16,325 16,854
SGD 19,615 19,694 20,232
THB 763 766 800
CAD 18,311 18,385 18,897
NZD 15,042 15,549
KRW 17.63 19.42
Cập nhật: 11/05/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25785 25785 26145
AUD 16257 16357 16925
CAD 18304 18404 18957
CHF 30785 30815 31712
CNY 0 3549.6 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28845 28945 29720
GBP 33935 33985 35098
HKD 0 3355 0
JPY 175.09 176.09 182.64
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15080 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19610 19740 20471
THB 0 730.9 0
TWD 0 845 0
XAU 12000000 12000000 12150000
XBJ 12000000 12000000 12150000
Cập nhật: 11/05/2025 10:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,170
USD20 25,780 25,830 26,170
USD1 25,780 25,830 26,170
AUD 16,311 16,461 17,531
EUR 28,899 29,049 30,224
CAD 18,245 18,345 19,662
SGD 19,685 19,835 20,311
JPY 175.65 177.15 181.84
GBP 34,012 34,162 34,952
XAU 11,649,000 0 12,051,000
CNY 0 3,432 0
THB 0 766 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 11/05/2025 10:00