Vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới, hội nhập quốc tế

08:57 | 15/04/2023

513 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Khoa học và công nghệ trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với công nghệ số hóa, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật và dữ liệu lớn,... đã và đang làm thay đổi sâu sắc nền sản xuất và kinh tế toàn cầu theo hướng thông minh hơn, hiệu quả hơn với tốc độ phát triển nhanh chưa từng có; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển văn hóa.

Ở Việt Nam, sự phát triển của khoa học và công nghệ, quá trình hội nhập quốc tế đã và đang tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hoạt động bảo tồn, truyền bá, sáng tạo văn hóa, nghệ thuật; giáo dục - đào tạo; ngôn ngữ; báo chí, xuất bản, quảng cáo, truyền thông; điện ảnh... Vì vậy, nhận thức đúng về vai trò của khoa học và công nghệ nói chung, chức năng của nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm kiếm, phát hiện, bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới, hội nhập quốc tế
Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương tham quan triển lãm thực tế ảo "Tổ quốc bên bờ sóng" tại Lễ phát động Cuộc thi tìm hiểu kiến thức về biển, đảo Việt Nam năm 2022 và ra mắt Triển lãm thực tế ảo “Tổ quốc bên bờ sóng” _Ảnh: TTXVN

Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới (năm 1986), các nghiên cứu khoa học về văn hóa ở nước ta càng được quan tâm và chú trọng. Qua từng giai đoạn phát triển, Đảng và Nhà nước đã định hướng nghiên cứu và tổ chức các chương trình nghiên cứu khoa học cấp quốc gia (cấp nhà nước) về văn hóa, tiêu biểu như một số công trình: Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, giai đoạn 1991 - 1995 về “Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội”, mã số KX.06; Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, giai đoạn 2001 - 2005 về “Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, mã số KX.05/01-05. Đặc biệt, có nhiều chương trình, đề tài triển khai thực hiện các văn kiện và nghị quyết của Đảng về văn hóa, như Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Có thể nói, việc nghiên cứu văn hóa được thực hiện trên quy mô lớn cả về số lượng và chất lượng, ở tất cả các cấp: cấp quốc gia, cấp bộ, ngành và địa phương đã đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn cho định hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay.

Tác động tích cực của khoa học và công nghệ đến phát triển văn hóa và vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, sự phát triển khoa học và công nghệ tạo ra kết cấu hạ tầng thông tin ngày một tốt hơn, như điện thoại, internet,... dẫn đến khả năng tiếp cận thông tin của con người ngày càng tăng nhanh không chỉ ở các trung tâm và thành phố, mà còn ở hầu hết các địa phương trên cả nước, từ nông thôn đến miền núi, hải đảo. Nhờ các nguồn thông tin không giới hạn giữa các vùng, miền, lãnh thổ quốc gia, với tính chất đa chiều, nhanh và quy mô không giới hạn, người dân thuộc mọi tầng lớp xã hội, ở những mức độ khác nhau, đều có thể tiếp cận các giá trị văn hóa, qua đó, hiểu biết phong phú, sâu rộng về các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có văn hóa.

Thứ hai, khoa học và công nghệ phát triển đã tạo môi trường, điều kiện để hình thành và phát triển xã hội học tập. Nếu trước đây người học phải đến trường tại một địa điểm cụ thể, việc học tập phụ thuộc vào kết cấu hạ tầng, như giao thông, cơ sở vật chất của trường học,... do đó, không phải ai cũng có cơ hội được đến trường, nhất là những trường hợp ở vùng sâu, vùng xa, thì ngày nay, nhờ có khoa học và công nghệ, thông tin số hóa, truyền thông đại chúng phát triển,... việc học tập được mở rộng cho mọi người, không giới hạn cả về thời gian, không gian và lứa tuổi.

Thứ ba, khoa học và công nghệ phát triển làm cho đời sống xã hội thay đổi theo hướng tích cực và dân chủ hơn. Sự phát triển của khoa học và công nghệ tác động mạnh mẽ đến nhận thức và giải phóng nhận thức của con người. Người dân có nhiều kênh thông tin không chỉ để tiếp thu kiến thức, mà còn để truyền đạt, bày tỏ ý kiến trực tiếp và gián tiếp đến các chủ thể quản lý và phát triển xã hội. Song, điều này cũng đặt ra vấn đề mỗi cá nhân buộc phải làm chủ thông tin, tự xử lý thông tin.

Thứ tư, khoa học và công nghệ phát triển đã thay đổi tư duy và phương thức sáng tạo văn hóa của các văn nghệ sĩ, cũng như thay đổi các phương tiện truyền tải các sản phẩm văn hóa; nhờ đó, văn hóa ngày càng phát triển phong phú và đa dạng, cơ hội hưởng thụ văn hóa của người dân cũng tăng lên.

Thứ năm, hình thành các ngành công nghiệp văn hóa, thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa có điều kiện mở rộng cả về quy mô, tốc độ và cường độ phát triển; tạo điều kiện hưởng thụ, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, truyền bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài; tạo sức mạnh mềm, nhân rộng ảnh hưởng đến giao lưu, hợp tác quốc tế. Khoa học và công nghệ cũng làm xuất hiện nhiều ngành, nghề mới, nhiều loại kinh doanh mới hiệu quả và hiện đại, làm cho tư duy, lối sống của người Việt Nam ngày một năng động.

Như vậy, có thể thấy, khoa học và công nghệ có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay. Điều này được thể hiện ở những điểm sau:

Một là, khoa học và công nghệ cùng với quá trình chuyển đổi số tạo nên nhu cầu, điều kiện, tiền đề và là nhân tố cơ bản giúp cho quá trình tri thức hóa lực lượng lao động ở Việt Nam, làm thay đổi cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp; tăng lao động có trình độ văn hóa cao, giảm bớt những lao động thủ công nặng nhọc.

Hai là, khoa học và công nghệ cùng với quá trình chuyển đổi số cũng đã và đang tiện ích hóa cuộc sống. Việc làm và tìm kiếm việc làm của người lao động thuận lợi hơn, đồng thời người lao động dễ dàng hơn trong tìm kiếm môi trường làm việc phù hợp với chuyên môn đào tạo thông qua hệ thống các công nghệ truyền thông, các phương tiện giao tiếp hiện đại.

Ba là, khoa học và công nghệ cùng với quá trình chuyển đổi số đã tạo nên diện mạo mới trong đời sống xã hội, từ ăn mặc, ứng xử, tác phong làm việc, sinh hoạt, học tập..., xóa bỏ lối sống gia trưởng, hình thành lối sống dân chủ, bình đẳng; góp phần nâng cao trình độ, thị hiếu thẩm mỹ, đa dạng hóa nhu cầu thẩm mỹ của người Việt Nam qua việc du nhập, thay đổi và tạo dựng những thị hiếu mới về kiến trúc, hội họa, thiết kế công nghiệp, quy hoạch đô thị, nông thôn, văn hóa ẩm thực,...

Bốn là, khoa học và công nghệ cùng với quá trình chuyển đổi số góp phần hình thành hệ giá trị văn hóa mới với những chuẩn mực phù hợp với sự phát triển tiến bộ của thời đại, góp phần nhận diện rõ hơn truyền thống văn hóa của dân tộc, phát huy giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam lên tầm cao mới. Với các nghiên cứu sâu, rộng về văn hóa, chúng ta có điều kiện hiểu biết sâu hơn về quá khứ và dự báo chính xác hơn về tương lai.

Vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới, hội nhập quốc tế
Họa sĩ số hóa bộ sưu tập mặt nạ tuồng cổ _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Thành tựu trong nghiên cứu về văn hóa ở Việt Nam thời gian qua

Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia về văn hóa do Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp thực hiện

- Giai đoạn 1991 - 1995: Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt và tổ chức thực hiện Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội”, mã số KX.06 với 17 đề tài nghiên cứu liên quan đến phát triển văn hóa: 1- Hệ quan điểm về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển; 2- Quá trình hình thành bản sắc văn hóa Việt Nam; 3- Văn minh Việt Nam trong quá khứ và viễn cảnh; 4- Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam; 5- Văn hóa Việt Nam với sự phát triển các sắc thái văn hóa - xã hội địa phương và tộc người; 6- Tiếng Việt và các tiếng thiểu số trong sự phát triển xã hội - văn hóa ở Việt Nam; 7- Văn học với công cuộc đổi mới của đất nước; 8- Khoa học và công nghệ với các giá trị văn hóa; 9- Nghệ thuật Việt Nam với việc phát triển nhân cách và văn minh Việt Nam; 10- Nho giáo trong tiến trình phát triển xã hội; 11- Văn hóa gia đình Việt Nam; 12- Văn hóa quản lý - Truyền thống và hiện đại; 13- Văn hóa, lối sống và môi trường; 14- Những nhân tố phi kinh tế với sự phát triển; 15- Tiếp xúc giao lưu và phát triển văn hóa. Quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và thế giới; 16- Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa vì sự phát triển của xã hội; 17- Sơ thảo những luận điểm cơ bản góp phần xây dựng đề cương văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới.

- Giai đoạn 1996 - 2000: Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt và tổ chức thực hiện Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Phát triển văn hóa, xây dựng con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, mã số KHXH.04 với ba đề tài nghiên cứu liên quan đến phát triển văn hóa: 1- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và xây dựng con người; 2- Đề cương xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 3- Xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội mới trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Giai đoạn 2000 - 2005: Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt và tổ chức thực hiện Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, mã số KX.05/01-05 với bốn đề tài nghiên cứu liên quan đến phát triển văn hóa: 1- Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu và phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; 2- Đời sống văn hóa và xu hướng phát triển văn hóa vùng nông thôn đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; 3- Đời sống văn hóa và xu hướng phát triển văn hóa vùng đô thị và khu công nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Hà Nội, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh); 4- Đời sống văn hóa và xu hướng phát triển văn hóa một số dân tộc vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Giai đoạn 2006 - 2010: Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt và tổ chức thực hiện:

Một là, Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: “Nghiên cứu phát huy điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và giá trị lịch sử - văn hóa 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, phục vụ phát triển toàn diện Thủ đô”, mã số KX.09 với chín đề tài nghiên cứu liên quan đến phát triển văn hóa: 1- Bài học và kinh nghiệm hoạt động đối ngoại của Thăng Long - Hà Nội; 2- Bài học và kinh nghiệm trong sự nghiệp giải phóng, bảo vệ Thăng Long - Hà Nội; 3- Kinh tế hàng hóa của Thăng Long - Hà Nội - Đặc trưng và kinh nghiệm phát triển; Giáo dục và đào tạo của Thăng Long Hà Nội; 4- Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo của Thủ đô trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; 5- Phát triển khoa học và trọng dụng nhân tài của Thăng Long - Hà Nội; 6- Bảo tồn và phát huy giá trị những di tích lịch sử - văn hóa - cách mạng tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội; 7- Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của Thăng Long - Hà Nội; 8- Những phẩm chất, nhân cách đặc trưng của người Thăng Long - Hà Nội trong quá trình xây dựng và bảo vệ Thủ đô; 9- Định hướng, quan điểm và những giải pháp lớn phát triển bền vững Thủ đô giàu đẹp, văn minh, hiện đại trên cơ sở tiềm năng lợi thế tự nhiên, kinh tế, xã hội và những giá trị lịch sử văn hóa.

Hai là, Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế”, mã số KX.03/06-10 với 21 đề tài nghiên cứu liên quan đến phát triển văn hóa: 1- Những yếu tố văn hóa - xã hội tác động đến sự ổn định và phát triển ở Tây Nguyên; 2- Những đặc điểm tâm lý của các dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Bắc và ảnh hưởng của chúng đến sự ổn định, phát triển ở khu vực này; 3- Văn hóa pháp luật Việt Nam: từ lý luận đến thực tiễn; 4- Các khuynh hướng cơ bản của lý luận văn học hiện đại trên thế giới và Việt Nam; 5- Cơ sở lý luận và phương pháp luận của việc phát triển văn hóa và con người Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế; 6- Nhân cách doanh nhân và văn hóa kinh doanh ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế; 7- Đặc điểm của tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra trước yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế; 8- Xây dựng con người và phát triển văn hóa Việt Nam trong hai mươi năm đổi mới và hội nhập quốc tế - quan điểm, giải pháp đến năm 2020; 9- Ảnh hưởng của văn hóa Tây Âu, Bắc Mỹ đối với thế giới và Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa; 10- Những nhân tố cơ bản tác động đến sự biến đổi của con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốctế; 11- Nhân cách văn hóa trí thức Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế; 12- Sự phát triển văn hóa và con người ở một số nước Đông Á - bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế; 13- Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế; 14- Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập; 15- Đặc điểm cư dân và văn hóa vùng ven biển trong quá trình phát triển đất nước hiện nay; 16- Thực trạng và xu hướng biến đổi lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế; 17- Xây dựng và phát triển văn hóa của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế; 18- Đời sống tinh thần của nông dân Việt Nam hiện nay - thực trạng và xu hướng biến đổi; 19- Những đặc trưng cơ bản về con người và văn hóa của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay; 20- Văn hóa và lối sống đô thị trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay; 21- Đổi mới văn hóa lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay.

- Giai đoạn 2011 - 2015: Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt và tổ chức thực hiện:

Một là, Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước “Nghiên cứu khoa học phát triển văn hóa, con người và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”, mã số KX.03/11-15 với mười đề tài nghiên cứu liên quan đến phát triển văn hóa: 1- Định hướng phát triển công nghiệp văn hóa dưới góc nhìn văn hóa và tác động của nó đến thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế; 2- Tác động của tiếp biến và hội nhập văn hóa đến phát triển ở Việt Nam hiện nay; 3- Bảo đảm quyền văn hóa trong điều kiện phát huy đa dạng văn hóa ở Việt Nam hiện nay; 4- Mối quan hệ giữa trung tâm và ngoại vi về phương diện văn hóa trong quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam; 5- Phát huy giá trị của tôn giáo nhằm xây dựng và nâng cao đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay; 6- An ninh văn hóa trong điều kiện hiện nay; 7- Văn hóa công vụ ở Việt Nam hiện nay; 8- Lối sống công nhân Việt Nam trong điều kiện công nghiệp hóa; 9- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tiếp cận thông tin ở nước ta hiện nay; 10- Văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa.

Hai là, Đề án Lý luận văn nghệ ở Việt Nam - Thực tiễn và định hướng phát triển đã thực hiện với 4 đề tài thành phần: 1- Tư tưởng lý luận văn nghệ trung cận đại ở Việt Nam; 2- Tư tưởng lý luận văn nghệ ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay; 3- Quá trình tiếp thu các tư tưởng lý luận nước ngoài vào Việt Nam thế kỷ XX; 4- Định hướng phát triển lý luận văn nghệ ở Việt Nam.

Ba là, Đề án Khoa học xã hội cấp quốc gia giai đoạn 2014 - 2018 “Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam” đã phê duyệt hệ thống các tập và sản phẩm của Đề án, bao gồm: bộ Lịch sử Việt Nam 25 tập (từ thời kỳ nguyên thủy đến năm 2015), bộ Biên niên sự kiện lịch sử Việt Nam 5 tập và Cơ sở dữ liệu lịch sử Việt Nam. Đề án đã huy động được trên 300 nhà khoa học trong cả nước tham gia thực hiện.

- Giai đoạn 2016 - 2020: Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu về văn hóa, cụ thể là: 1- Văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; 2- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam; 3- Ứng xử của người Việt Nam hiện nay trong các không gian công cộng; 4- Nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vấn đề văn hóa và đề xuất, bổ sung, phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới; 5- Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp; 6- Hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; 7- Biến đổi văn hóa các dân tộc thiểu số - những vấn đề đặt ra và giải pháp trong thời gian tới; 8- Những giải pháp cấp bách về bảo tồn và phát huy các giá trị văn học cổ truyền của dân tộc thiểu số Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển; 9- Những giải pháp cấp bách nhằm bảo tồn và phát huy giá trị các di sản âm nhạc cổ truyền của các dân tộc thiểu số.

Một số nhiệm vụ nghiên cứu về văn hóa do các bộ, ngành thực hiện

Thứ nhất, Dự án khai quật khảo cổ học khu di tích Hoàng thành Thăng Long được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và giao Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức thực hiện từ tháng 12-2002 đến tháng 3-2004. Dự án đã phát hiện được một quần thể phong phú các loại hình di tích và hàng triệu di vật khảo cổ thuộc nhiều thời kỳ nằm chồng xếp, đan xen lên nhau, bắt đầu từ thời Đại La (thế kỷ VII-IX), thời Đinh - Tiền Lê (thế kỷ X) đến thời Lý, Trần, Lê (thế kỷ XI-XVIII), phản ánh lịch sử phát triển liên tục, kéo dài 1.300 năm của trung tâm quyền lực trong lịch sử dân tộc. Đồng thời, để có cơ sở đề xuất phương án bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích, dự án “Chỉnh lý, nghiên cứu, bảo quản và phát huy giá trị khu di tích Hoàng thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu” được xây dựng và triển khai thực hiện. Đây là dự án lớn, có ý nghĩa chính trị, xã hội và khoa học rất sâu sắc, bởi kết quả nghiên cứu của dự án có tầm quan trọng đặc biệt trong việc làm rõ giá trị lịch sử, văn hóa của khu di tích Hoàng thành Thăng Long, một bộ phận quan trọng của Kinh đô Thăng Long, trung tâm quyền lực, trung tâm chính trị lớn của dân tộc. Kết quả nghiên cứu của Dự án không những cung cấp những cơ sở khoa học tin cậy trong việc đề xuất với Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ về chiến lược quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị lâu dài của khu di tích, mà còn là cơ sở cho việc xây dựng Hồ sơ đề cử UNESCO công nhận khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là Di sản văn hóa thế giới; đồng thời, góp phần quảng bá giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống, khơi dậy niềm tự hào lịch sử nghìn năm văn hiến của Thủ đô Hà Nội.

Thứ hai, Đề án “Nghiên cứu khu di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê, Nền Chùa (Văn hóa Óc Eo Nam Bộ)” được Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức thực hiện. Mục tiêu quan trọng của Đề án là khai quật, nghiên cứu khảo cổ học khu di tích Óc Eo - Ba Thê (An Giang) và Nền Chùa (Kiên Giang) nhằm minh chứng làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, làm rõ giá trị của đô thị cổ Óc Eo, văn hóa Óc Eo và văn minh Phù Nam trong lịch sử, văn hóa Việt Nam và khu vực Đông Nam Á; cung cấp cơ sở khoa học cho công tác quy hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo (Nam Bộ), đặc biệt là cho công tác xây dựng Hồ sơ đề cử UNESCO xem xét công nhận khu di tích Óc Eo - Ba Thê là Di sản văn hóa thế giới.

Thứ ba, Chương trình “Tầm nhìn 2010” (2000 - 2010) do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam thực hiện. Mục tiêu của Chương trình nhằm huy động lực lượng của toàn bộ hội viên và các cộng tác viên của Hội tiến hành tổng kiểm kê di sản văn hóa, văn nghệ dân gian do ông cha sáng tạo và truyền lại cho chúng ta. Kết quả này đã thể hiện trong gần 4.000 công trình của hội viên. Theo đó, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam thực hiệnDự án “Công bố, phổ biến tài sản văn hóa - văn nghệ dân gian Việt Nam”. Dự án được thực hiện trong 10 năm (2008 - 2017). Kết quả thực hiện Dự án với 2.500 công trình - tác phẩm, chọn lọc trong tổng số gần 4.000 công trình sưu tầm nghiên cứu, là thành quả lao động miệt mài của hơn 1.000 hội viên trong suốt 30 năm (đã thực hiện trước thời điểm quyết định giao Dự án).

Thứ ba, Chương trình quốc gia về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể (thường nói gọn là “Chương trình Văn hóa phi vật thể”) do Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam chủ trì, phối hợp với các địa phương(1) thực hiện từ năm 1997 đến năm 2014. Các đề tài thuộc Chương trình văn hóa phi vật thể được tiến hành với nội dung phong phú. Riêng chủ đề về lễ hội cũng được khai thác, sưu tầm với các khía cạnh đa dạng khác nhau, như nghi lễ thờ Mẫu, thờ các hiện tượng tự nhiên (tứ pháp), thờ cúng tổ tiên, các vị anh hùng, những người có công trong xây dựng và bảo vệ vùng đất cư trú của cộng đồng...

Thứ tư, Dự án “Nghiên cứu Quốc học” do Trung tâm Nghiên cứu quốc học (thuộc Hội Nhà văn Việt Nam) thực hiện từ năm 2010 đến nay. Hiện tại, Trung tâm nghiên cứu Quốc học đã công bố được gần 200 công trình nghiên cứu về lĩnh vực văn học, văn hóa - văn nghệ, góp phần làm giàu thêm chiều sâu của văn hóa dân tộc, gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa truyền thống và nâng cao lòng tự hào dân tộc. Có thể kể đến một số công trình đã xuất bản như: 1- Người đi dép cao su; 2- Lịch sử văn học thế giới; 3- Cao Bá Quát; 4- Tuyển tập những bài viết về giáo dục và văn học; 5- Đồ đồng văn hóa Đông Sơn; 6- Giới thiệu 152 nhạc khí và 24 dàn nhạc dân tộc Việt Nam; 7- Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi; 8- Kiều học tinh hoa; 9- Nguyễn Du toàn tập; 10- Từ điển song ngữ Hán Việt Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa; 11- Lịch sử âm nhạc Việt Nam; 12- Toàn Việt thi lục; 13- Lý luận phê bình văn nghệ cổ Việt Nam; 14- Phạm Thái toàn tập.

Trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn nói chung, nghiên cứu về văn hóa nói riêng đã có nhiều đóng góp tích cực đối với sự phát triển văn hóa Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu về văn hóa ở nước ta trở thành luận cứ khoa học phục vụ công tác xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển văn hóa. Phát triển văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế là kết quả đóng góp rất thiết thực và cụ thể của đội ngũ các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động văn hóa, của các tổ chức nghiên cứu khoa học và hoạt động văn hóa ở nước ta. Sự phát triển của văn hóa Việt Nam đồng thời cũng khẳng định vai trò của khoa học và công nghệ là “quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”(2).

TS NGUYỄN HOÀNG GIANG - TS NGUYỄN THÀNH TRUNG

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học xã hội, nhân văn và tự nhiên, Bộ Khoa học và Công nghệ

-------------------

(1) Tổng cộng có 61/61(nay là 63/63) tỉnh, thành phố được đặt vào đối tượng khảo sát, sưu tầm

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 136

Theo Tạp chí Cộng sản

Văn hóa là động lực quan trọng để phát triển kinh tếVăn hóa là động lực quan trọng để phát triển kinh tế
Văn hóa giúp nâng tầm, lan tỏa giá trị thương hiệu du lịch Việt NamVăn hóa giúp nâng tầm, lan tỏa giá trị thương hiệu du lịch Việt Nam