Trung Quốc trở thành "thương lái" ôtô cũ trên toàn cầu

11:51 | 05/08/2019

256 lượt xem
|
Trung Quốc đang tích cực xuất khẩu ôtô cũ sang các thị trường mới nổi nhằm kích thích sức tiêu dùng nội địa.

Một công ty Trung Quốc ở Quảng Châu gần đây xuất khẩu 300 ôtô đã qua sử dụng sang Campuchia, Nigeria, Myanmar và Nga, Detroit News đưa tin tuần trước. Đây là chuyến hàng đầu tiên của Trung Quốc, nơi cho đến nay vẫn hạn chế xuất khẩu ôtô cũ quy mô lớn vì tôn trọng các nhà sản xuất, những người sợ rằng xe chất lượng kém có thể hủy hoại danh tiếng của họ. Tuy nhiên, sẽ còn nhiều những chuyến hàng tương tự, và tầm ảnh hưởng của chúng sẽ không chỉ dừng lại ở những lô xe cũ của Trung Quốc.

Khi mọi chú ý đều tập trung vào xe điện và xe tự lái, người ta dễ bỏ qua thị trường rộng lớn và đầy thế lực của những cỗ xe lỗi thời còn sót lại. Ở những nền kinh tế phát triển, số ôtô cũ bán được nhiều gấp hơn hai lần so với doanh số xe mới. Chẳng hạn, trong 2018 có 17,3 triệu xe mới được bán ra ở Mỹ - còn doanh số của xe cũ là 40,2 triệu. Khoảng cách này được dự báo sẽ còn nới rộng hơn trong 2019, bởi trong khi giá xe mới liên tục leo thang thì một lượng lớn xe đã qua sử dụng sắp hết hạn cho thuê. Các nhà sản xuất ôtô có thể buộc phải giảm giá xe mới và ưu đãi nhằm vực dậy doanh số.

Trung Quốc trở thành
Trung Quốc đã bắt đầu xuất khẩu ôtô cũ sang Nigeria. Ảnh: Nigeria Today

Những nước giàu như Nhật Bản hay Mỹ đều đã xuất một số loại xe đời cũ đến các quốc gia đang phát triển như Mexico và Nigeria trong hàng chục năm nay. Việc buôn bán này không những giúp giảm số lượng ôtô gây ô nhiễm lưu thông trên phố, mà còn thúc đẩy doanh số xe mới bằng cách giảm nguồn cung xe cũ.

So với doanh số nội địa, những con số này khá khiêm tốn: Mỹ xuất khẩu chưa đến 800.000 xe đã qua sử dụng vào năm ngoái, con số này duy trì tương đối ổn định từ 2013. Hơn nữa, chúng chỉ chiếm gần một phần ba số xe 7 chỗ trở xuống và xe tải hạng nhẹ xuất khẩu từ Mỹ trong 2018. Nhật xuất khẩu khoảng gần một triệu xe mỗi năm. Singapore, Hàn, các nước châu Âu và Canada cũng xuất khẩu số lượng đáng kể ôtô cũ.

Đáng nói là Trung Quốc cũng sẽ tham gia cùng nhóm nước kể trên. Vì một lý do, hàng tồn kho đang tăng lên. Trong 2018, Trung Quốc đã bán 28 triệu xe mới và gần 14 triệu xe cũ. Tỷ lệ này sẽ sớm thay đổi, bởi Trung Quốc là xứ sở của hơn 300 triệu xe đã được đăng kiểm – con số lớn nhất trên thế giới – và khả năng phần nhiều trong số này được bán lại chỉ là vấn đề thời gian. Chất lượng của ôtô Trung Quốc cũng đã được nâng cao đến ngưỡng nhiều khách hàng ở các nước đang phát triển có thể dễ dàng chọn chúng như một phương tiện thay thế rẻ hơn các ôtô cũ của Toyota hay Ford.

Trong khi đó, nền công nghiệp ôtô Trung Quốc đang đình trệ và các nhà hoạch định chính sách đang nóng lòng tìm cách thúc đẩy. Chính phủ nước này cho rằng, xuất khẩu ôtô cũ có thể "kích thích sức tiêu thụ của thị trường ôtô nội địa".

Điều này báo hiệu sự cạnh tranh và có thể là cả rắc rối sẽ nảy sinh đối với ngành ôtô toàn cầu. Sự gia tăng nguồn cung ôtô cũ tất yếu sẽ đẩy giá xuống, đặc biệt ở những thị trường mới nổi như Nigeria và Campuchia, nơi các nhà xuất khẩu xe hơi Trung Quốc sẽ "marketing" sản phẩm của họ.

Trong khi đó là tin tốt cho những người mua ôtô tương lai ở Lagos (Nigeria), trong dài hạn thương vụ này sẽ tác động tới doanh số xe mới và thậm chí là cả nền sản xuất ở những nước đang phát triển. Đa số những nước này nằm trong chuỗi cung ứng toàn cầu của các nhà sản xuất ôtô. Tương tự, khi ít ôtô được xuất khẩu hơn, chẳng hạn như từ Mỹ, cuộc cạnh tranh giữa xe mới và cũ trong nước sẽ càng trở nên khốc liệt.

Và ôtô chỉ là sự khởi đầu. Các nhà máy ở Trung Quốc đã giảm chi phí các mặt hàng mới từ hơn ba mươi năm nay. Số lượng lớn hàng hóa cũ được mua sắm và nay được tống khứ bởi người tiêu dùng Trung Quốc sẽ làm giảm áp lực lên giá của cả những sản phẩm mới cũng như cũ ở khắp mọi nơi.

Những dấu hiệu của sự gián đoạn này đã và đang xuất hiện ở một thị trường "secondhand" khác: quần áo cũ. Khi Trung Quốc đã trở thành nhà sản xuất và tiêu dùng hàng may mặc lớn nhất thế giới, nước này đồng thời cũng trở thành nguồn thải bỏ hàng may mặc lớn nhất, với ước tính khoảng 26 triệu tấn đồ cũ được thải bỏ hàng năm. (Mỹ thải bỏ khoảng 16 triệu tấn quần áo năm 2015, theo số liệu được công bố gần nhất).

Số liệu về quần áo cũ xuất khẩu của Trung Quốc khá ít, nhưng trong 2015 nước này đã xuất khẩu chính thức 218,2 triệu USD hàng may mặc đã qua sử dụng, trong khi số liệu này của Mỹ là 575,5 triệu USD. Trong lĩnh vực này, Trung Quốc được công nhận rộng rãi là nước có nguồn cung hàng may mặc cũ tăng trưởng nhanh nhất trên toàn cầu. Giới thương lái Tây Phi khẳng định rằng sự tăng vọt số lượng quần áo Trung Quốc nhập khẩu gần đây đã giúp hạ giá thị trường quần áo cả cũ cũng như mới.

Số ôtô cũ xuất khẩu của Trung Quốc đang khởi đầu ở mức khiêm tốn và sẽ tốn thời gian để nước này có thể đuổi kịp các đối thủ đã khẳng định được tên tuổi. Tuy nhiên, đây không phải là ngành chế tạo thiết bị bán dẫn; trong dài hạn, Trung Quốc sẽ có nhiều ôtô cũ để bán hơn bất cứ quốc gia nào và ngành xuất khẩu xe hơi đã qua sử dụng của nước này tất yếu sẽ dẫn đầu thế giới. Các nhà sản xuất ôtô toàn cầu chắc chắn sẽ muốn "thắt dây an toàn" trong cuộc đua này với Trung Quốc.

Theo VNE

Né "tháng cô hồn", xe giá rẻ nhập khẩu ồ ạt về Việt Nam
Hàng chục nghìn xế hộp giá rẻ Thái, Indonesia "tấn công" Việt Nam mỗi năm
Người Việt chịu chơi, nhiều mẫu xe dưới 700 triệu đồng đạt doanh số "khủng"
"Hàng hot" CRV, Xpander dính lỗi đồng loạt, xe Trung Quốc trầy trật ở Việt Nam
Sau Xpander đến CRV lỗi đồng loạt, "xe hàng hiệu" nguy cơ mất doanh số

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Hà Nội - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Đà Nẵng - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Miền Tây - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Tây Nguyên - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Đông Nam Bộ - PNJ 144,800 ▲2300K 147,800 ▲2300K
Cập nhật: 15/10/2025 18:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,540 ▲310K 14,790 ▲190K
Trang sức 99.9 14,530 ▲310K 14,780 ▲190K
NL 99.99 14,540 ▲310K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,540 ▲310K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,600 ▲220K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Thái Bình 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Nghệ An 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Miếng SJC Hà Nội 14,600 ▲190K 14,800 ▲190K
Cập nhật: 15/10/2025 18:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 146 ▼1295K 14,802 ▲190K
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 146 ▼1295K 14,803 ▲190K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,442 ▲19K 1,464 ▲19K
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,442 ▲19K 1,465 ▲19K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,419 ▲1279K 1,449 ▲1306K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,965 ▲1881K 143,465 ▲1881K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,336 ▲1425K 108,836 ▲1425K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,192 ▲90293K 98,692 ▲97718K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 81,048 ▲1159K 88,548 ▲1159K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,135 ▲1108K 84,635 ▲1108K
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,079 ▲792K 60,579 ▲792K
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 ▼1295K 148 ▼1313K
Cập nhật: 15/10/2025 18:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16652 16921 17493
CAD 18233 18509 19123
CHF 32269 32652 33284
CNY 0 3470 3830
EUR 30006 30279 31302
GBP 34352 34744 35683
HKD 0 3257 3459
JPY 167 171 177
KRW 0 17 19
NZD 0 14780 15366
SGD 19791 20073 20587
THB 725 788 841
USD (1,2) 26077 0 0
USD (5,10,20) 26118 0 0
USD (50,100) 26146 26181 26369
Cập nhật: 15/10/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,166 26,166 26,369
USD(1-2-5) 25,120 - -
USD(10-20) 25,120 - -
EUR 30,254 30,278 31,407
JPY 171.14 171.45 178.52
GBP 34,780 34,874 35,670
AUD 16,925 16,986 17,415
CAD 18,479 18,538 19,051
CHF 32,656 32,758 33,414
SGD 19,968 20,030 20,636
CNY - 3,652 3,746
HKD 3,338 3,348 3,428
KRW 17.17 17.91 19.22
THB 776.28 785.87 835.42
NZD 14,806 14,943 15,280
SEK - 2,737 2,815
DKK - 4,047 4,161
NOK - 2,568 2,640
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,844.75 - 6,552.97
TWD 781.2 - 939.35
SAR - 6,928.45 7,247.93
KWD - 83,867 88,598
Cập nhật: 15/10/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,369
EUR 30,013 30,134 31,216
GBP 34,518 34,657 35,592
HKD 3,324 3,337 3,440
CHF 32,326 32,456 33,332
JPY 170.25 170.93 177.77
AUD 16,800 16,867 17,383
SGD 19,976 20,056 20,566
THB 788 791 825
CAD 18,449 18,523 19,004
NZD 14,827 15,304
KRW 17.72 19.37
Cập nhật: 15/10/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26369
AUD 16818 16918 17529
CAD 18407 18507 19111
CHF 32504 32534 33409
CNY 0 3660.9 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30178 30208 31231
GBP 34651 34701 35822
HKD 0 3390 0
JPY 170.41 170.91 177.95
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14882 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19943 20073 20794
THB 0 753.5 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14600000 14600000 14800000
SBJ 14000000 14000000 14800000
Cập nhật: 15/10/2025 18:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,176 26,226 26,369
USD20 26,176 26,226 26,369
USD1 26,176 26,226 26,369
AUD 16,870 16,970 18,078
EUR 30,359 30,359 31,671
CAD 18,360 18,460 19,772
SGD 20,033 20,183 21,190
JPY 171.13 172.63 177.23
GBP 34,780 34,930 35,701
XAU 14,598,000 0 14,802,000
CNY 0 3,458 0
THB 0 792 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 15/10/2025 18:45