Tin tức kinh tế ngày 20/3: Việt Nam nhập siêu 0,49 tỷ USD trong nửa đầu tháng 3

20:55 | 20/03/2023

3,673 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường khu vực ASEAN bật tăng; Việt Nam nhập siêu 0,49 tỷ USD trong nửa đầu tháng 3; Giá dầu xuống mức thấp nhất 15 tháng… là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 20/3.
Tin tức kinh tế ngày 20/3:
Việt Nam nhập siêu 0,49 tỷ USD trong nửa đầu tháng 3 (Ảnh minh họa)

Giá vàng thế giới quay đầu giảm mạnh

Giá vàng thế giới quay đầu giảm mạnh trong phiên giao dịch sáng đầu tuần với vàng giao ngay giảm 13,2 USD, đứng ở mức 1.976,1 USD/ounce.

Tại thị trường trong nước, giá vàng rạng sáng nay đứng yên với vàng SJC ở khu vực Hà Nội và Đà Nẵng giao dịch ở mức 66,6 triệu đồng/lượng mua vào và 67,52 triệu đồng/lượng bán ra. Tại TP HCM, vàng SJC vẫn đang mua vào mức tương tự như ở khu vực Hà Nội và Đà Nẵng nhưng bán ra thấp hơn 20.000 đồng.

Giá vàng thương hiệu DOJI tại khu vực Hà Nội đang niêm yết ở mức 66,7 triệu đồng/lượng mua vào và 67,7 triệu đồng/lượng bán ra. Tại TP HCM, vàng thương hiệu này đang mua vào và bán ra mức tương tự như ở khu vực Hà Nội.

Giá vàng Phú Quý SJC đang niêm yết mức 66,6 triệu đồng/lượng mua vào và 67,5 triệu đồng/lượng bán ra.

Xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường khu vực ASEAN bật tăng

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 2 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường khu vực ASEAN như Thái Lan, Singapore bật tăng.

Cụ thể, trong 2 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thái Lan đạt 1,2 tỷ USD, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2022; sang Singapore đạt 677,7 triệu USD, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm 2022.

Tính chung khu vực ASEAN, 2 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN đạt 4,96 tỷ USD, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Việt Nam nhập siêu 0,49 tỷ USD trong nửa đầu tháng 3

Theo số liệu công bố sáng ngày 20/3 từ Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa nửa đầu tháng 3 (1/3- 15/3) của Việt Nam đạt 27,15 tỷ USD, giảm 11% so với cùng kỳ năm 2022.

Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 13,33 tỷ USD, giảm 13% so với nửa đầu tháng 3/2022. Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 13,82 tỷ USD, giảm 9% so với cùng kỳ năm 2022.

Với kết quả này, cán cân thương mại nghiêng về nhập siêu với 0,49 tỷ USD.

VASEP đề xuất giảm thuế nhập khẩu thức ăn chăn nuôi

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) vừa có công văn gửi Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), đề xuất giảm thuế nhập khẩu khô đậu tương từ 2% xuống 0% để hỗ trợ ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam.

Theo VASEP, trong mấy năm gần đây, ngày càng nhiều tác động khiến ngành thủy sản đang chịu ảnh hưởng lớn. Từ tác động của dịch bệnh COVID-19, xung đột Nga - Ukraine làm đứt gãy chuỗi cung ứng nguyên liệu, chi phí logistics tăng cao, lạm phát và đặc biệt giá nguyên liệu đầu vào sản xuất thức ăn chăn nuôi (TACN), thủy sản tăng cao kỷ lục và không ổn định, dẫn đến giá thành sản xuất thức ăn thủy sản và sản phẩm thủy sản đều cao.

Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của ngành với các nước đối thủ (Ecuador, Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc...) và các kế hoạch phát triển bền vững của ngành.

Giá dầu xuống mức thấp nhất 15 tháng

Giá dầu hôm thứ Hai (20/3) giảm xuống mức thấp nhất trong 15 tháng do lo ngại rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng toàn cầu có thể gây ra suy thoái khiến nhu cầu nhiên liệu giảm. Động thái này cũng diễn ra trước thềm cuộc họp chính sách của Fed (21-22/3) về nội dung tăng lãi suất.

Theo đó, dầu thô Brent kỳ hạn giao tháng 5 giảm 2,32 USD, tương đương 3,2%, xuống 70,65 USD/thùng vào lúc 07:10 GMT. Giá dầu Brent kỳ hạn trước đó đã giảm xuống mức thấp nhất là 70,56 USD, mức thấp nhất kể từ tháng 12/2021. Tuần trước, dầu Brent đã giảm gần 12%, mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ tháng 12.

Dầu thô West Texas Intermediate (WTI) của Mỹ giao tháng 4 được giao dịch ở mức 64,59 USD/thùng, giảm 2,15 USD, tương đương 3,2%. Trước đó, hợp đồng này đã giảm xuống còn 64,51 USD, cũng là mức thấp nhất kể từ tháng 12/2021. Hợp đồng này đã giảm 13% vào tuần trước, ghi nhận mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ tháng 4 năm ngoái.

Giá cá tra tăng cao

Những ngày gần đây, giá cá tra nguyên liệu hiện đã vượt mức 30.000 đồng/kg. Doanh nghiệp khó thu mua hàng, trong khi các ao nuôi lượng bán cũng không nhiều.

Hiện giá cá tra nguyên liệu tại các vựa nuôi tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long như An Giang, Đồng Tháp và TP Cần Thơ... đang tăng mạnh từ 28.000 đồng/kg lên 31.000 - 32.000 đồng/kg.

Theo các hộ nuôi cá tại tỉnh An Giang, cả tuần nay, giá cá tra tăng mạnh, đặc biệt, doanh nghiệp xuống tận ao đặt tiền cọc trước để giữ mối giúp cho nông dân rất phấn khởi. Hiện giá thành nuôi cá tra hiện nay đã lên mức 29.000 - 30.000 đồng/kg, với mức giá cá tăng lên 31.500 - 32.000 đồng/kg, người nuôi cá tra đã bắt đầu có lời.

Tin tức kinh tế ngày 19/3: NHNN nghiêm cấm thông tin sai sự thật về trái phiếu

Tin tức kinh tế ngày 19/3: NHNN nghiêm cấm thông tin sai sự thật về trái phiếu

NHNN nghiêm cấm thông tin sai sự thật về trái phiếu; Hơn 50 doanh nghiệp Mỹ sắp đến Việt Nam tìm cơ hội đầu tư; Giá xăng dự báo sẽ giảm sâu… là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 19/3.

P.V (t/h)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,500 80,500
AVPL/SJC HCM 78,500 80,500
AVPL/SJC ĐN 78,500 80,500
Nguyên liệu 9999 - HN 77,850 ▲400K 78,050 ▲450K
Nguyên liệu 999 - HN 77,750 ▲400K 77,950 ▲450K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,500 80,500
Cập nhật: 13/09/2024 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.950 ▲450K 79.100 ▲450K
TPHCM - SJC 78.500 80.500
Hà Nội - PNJ 77.950 ▲450K 79.100 ▲450K
Hà Nội - SJC 78.500 80.500
Đà Nẵng - PNJ 77.950 ▲450K 79.100 ▲450K
Đà Nẵng - SJC 78.500 80.500
Miền Tây - PNJ 77.950 ▲450K 79.100 ▲450K
Miền Tây - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.950 ▲450K 79.100 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.950 ▲450K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.950 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.900 ▲500K 78.700 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.820 ▲500K 78.620 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 77.010 ▲490K 78.010 ▲490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.690 ▲460K 72.190 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.780 ▲380K 59.180 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 52.270 ▲340K 53.670 ▲340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.910 ▲330K 51.310 ▲330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.760 ▲310K 48.160 ▲310K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.790 ▲290K 46.190 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.490 ▲210K 32.890 ▲210K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.260 ▲180K 29.660 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.720 ▲160K 26.120 ▲160K
Cập nhật: 13/09/2024 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,685 ▲40K 7,870 ▲50K
Trang sức 99.9 7,675 ▲40K 7,860 ▲50K
NL 99.99 7,690 ▲40K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,690 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,790 ▲40K 7,910 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,790 ▲40K 7,910 ▲50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,790 ▲40K 7,910 ▲50K
Miếng SJC Thái Bình 7,850 8,050
Miếng SJC Nghệ An 7,850 8,050
Miếng SJC Hà Nội 7,850 8,050
Cập nhật: 13/09/2024 21:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,500 80,500
SJC 5c 78,500 80,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,500 80,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,800 ▲500K 79,100 ▲500K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,800 ▲500K 79,200 ▲500K
Nữ Trang 99.99% 77,700 ▲500K 78,700 ▲500K
Nữ Trang 99% 75,921 ▲495K 77,921 ▲495K
Nữ Trang 68% 51,171 ▲340K 53,671 ▲340K
Nữ Trang 41.7% 30,471 ▲208K 32,971 ▲208K
Cập nhật: 13/09/2024 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,097.83 16,260.44 16,782.99
CAD 17,635.99 17,814.13 18,386.62
CHF 28,182.70 28,467.37 29,382.21
CNY 3,385.70 3,419.90 3,530.34
DKK - 3,581.35 3,718.70
EUR 26,526.61 26,794.55 27,982.60
GBP 31,456.22 31,773.96 32,795.07
HKD 3,069.29 3,100.29 3,199.93
INR - 291.84 303.52
JPY 168.91 170.62 178.78
KRW 15.98 17.75 19.36
KWD - 80,245.80 83,458.40
MYR - 5,629.52 5,752.61
NOK - 2,248.76 2,344.36
RUB - 262.02 290.08
SAR - 6,526.41 6,787.69
SEK - 2,344.89 2,444.58
SGD 18,426.15 18,612.27 19,210.40
THB 651.71 724.12 751.89
USD 24,360.00 24,390.00 24,730.00
Cập nhật: 13/09/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,370.00 24,380.00 24,720.00
EUR 26,681.00 26,788.00 27,903.00
GBP 31,654.00 31,781.00 32,768.00
HKD 3,084.00 3,096.00 3,200.00
CHF 28,349.00 28,463.00 29,353.00
JPY 169.50 170.18 178.08
AUD 16,207.00 16,272.00 16,779.00
SGD 18,546.00 18,620.00 19,172.00
THB 717.00 720.00 752.00
CAD 17,751.00 17,822.00 18,366.00
NZD 14,944.00 15,449.00
KRW 17.65 19.49
Cập nhật: 13/09/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24390 24390 24720
AUD 16276 16326 16836
CAD 17868 17918 18369
CHF 28674 28724 29278
CNY 0 3420.9 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 26953 27003 27706
GBP 31983 32033 32703
HKD 0 3185 0
JPY 172.1 172.6 178.11
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.011 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 14966 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2395 0
SGD 18676 18726 19287
THB 0 695.8 0
TWD 0 772 0
XAU 7850000 7850000 8080000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 13/09/2024 21:00