Tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy triển khai các dự án đường cao tốc vùng đồng bằng sông Cửu Long

21:22 | 08/07/2023

155 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chiều ngày 8/7, tại Cần Thơ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị làm việc với lãnh đạo các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và các bộ, ngành về tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các dự án cao tốc và triển khai các dự án ODA vùng ĐBSCL.

Cùng tham dự cuộc làm việc có Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông Lê Minh Hoan, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và 13 tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL.

Tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy triển khai các dự án đường cao tốc vùng đồng bằng sông Cửu Long
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các dự án đường cao tốc và triển khai vốn ODA vùng đồng bằng sông Cửu Long

Trước đó, sáng cùng ngày, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đã dẫn đầu đoàn công tác của Chính phủ khảo sát và làm việc với UBND TP. Cần Thơ về tình hình triển khai một số dự án ODA trên địa bàn Thành phố gồm dự án đầu tư xây dựng bệnh viện Ung bướu Cần Thơ có quy mô 500 giường, sử dụng vốn vay ODA của Hungary, dự án kè bờ sông Cần Thơ sử dụng vốn vay của Pháp, dự án công trình cầu Trần Hoàng Na sử dụng vốn vay của Ngân hàng Thế giới (WB).

Các báo cáo, ý kiến tại cuộc họp thống nhất đánh giá, ĐBSCL là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng, có nhiều tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh, là vùng nông nghiệp nổi tiếng thế giới; nhưng chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh, trong đó có nguyên nhân do kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ (thiếu và yếu) và việc huy động, sử dụng nguồn lực cho phát triển còn hạn chế, trong đó có nguồn vốn ODA. Có thể nói, hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông là điểm nghẽn, cản trở ĐBSCL phát triển.

Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, triển khai nhiều giải pháp để phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL. Việc thể chế hóa chủ trương của Đảng bằng các cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bố trí nguồn lực, tổ chức thực hiện rất tích cực và có hệ thống.

Đến nay, vùng ĐBSCL đã hoàn thành và đưa vào khai thác 171 km cao tốc theo quy mô phân kỳ giai đoạn 1 (4 làn xe). 8 dự án đang được triển khai, bảo đảm cơ bản hoàn thành trong giai đoạn 2021 - 2025, đưa vào khai thác trong năm 2026 với tổng chiều dài 463 km (tổng mức đầu tư khoảng 94.400 tỷ đồng). Như vậy, đến năm 2026, khu vực ĐBSCL sẽ có khoảng 554 km đường cao tốc.

Tuy nhiên, việc triển khai các dự án giao thông tại ĐBSCL còn một số khó khăn như giải phóng mặt bằng, nguồn vật liệu san lấp đắp nền đường, công tác quản lý dự án, năng lực của nhà thầu, tư vấn, thủ tục giải ngân, điều kiện thi công phức tạp...

Các dự án tại vùng ĐBSCL đi qua khu vực địa chất yếu, việc xử lý lún nền đường mất nhiều thời gian; tiến độ hoàn toàn phụ thuộc vào việc bàn giao mặt bằng. Đến nay, phần lớn mặt bằng đã được bàn giao, cơ bản đáp ứng yêu cầu về thi công; tuy nhiên, đối với phần mặt bằng còn lại là các khu vực đất ở, di dời công trình hạ tầng kỹ thuật là khó khăn nhất và mất nhiều thời gian nhất.

Nút thắt lớn nhất của các dự án là bảo đảm nguồn vật liệu cát đắp, đến nay, mặc dù các dự án đã được xác định nguồn cung, tuy nhiên, các địa phương triển khai các thủ tục để giao mỏ cho các nhà thầu khai thác theo cơ chế đặc thù còn chậm, chưa đáp ứng tiến độ thi công. Nếu không nhanh chóng tháo gỡ các vướng mắc, hoàn thành các thủ tục để khai thác trong tháng 7/2023 sẽ ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành các dự án.

Về vốn ODA, trong giai đoạn 2021-2025, vùng ĐBSCL có 62 dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài đang triển khai với tổng mức vốn nước ngoài là 56.442 tỷ đồng (tương đương 2,8 tỷ USD), kế hoạch đầu tư công trung hạn đối ứng vốn nước ngoài từ nguồn ngân sách Trung ương được giao là 15.174 tỷ đồng. Giải ngân vốn đầu tư công, vốn ODA của vùng ĐBSCL còn thấp, hết tháng 6/2023, giải ngân vốn trong nước là 10.107,89 tỷ đồng (đạt 36,29%), giải ngân vốn nước ngoài là 153,910 tỷ đồng (đạt 5,34% - thấp hơn nhiều bình quân chung cả nước là 15,7%).

Các đại biểu cho rằng, còn nhiều tồn tại, hạn chế trong giải ngân vốn đầu tư công, trong đó có vốn ODA, nhất là công tác quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện dự án đầu tư; làm giảm hiệu quả của đầu tư công và vốn ODA.

Theo các đại biểu, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng là nút thắt lớn đối với triển khai các dự án đầu tư công, trong đó có các dự án ODA; nhiều dự án chuẩn bị đầu tư không kỹ, áp dụng các công nghệ nhanh chóng thay đổi dẫn đến phải điều chỉnh thiết kế, tăng chi phí, phải gia hạn thời gian thực hiện dự án; thể chế, pháp luật về vốn ODA, vốn vay ưu đãi chưa điều chỉnh kịp thời theo yêu cầu thực tiễn, các dự án ODA phải áp dụng đồng thời quy trình thủ tục trong nước và quy định của nhà tài trợ nên mất nhiều thời gian; vướng mắc trong điều chỉnh dự án, điều chỉnh chủ trương đầu tư, điều chỉnh hiệp định vay; ảnh hưởng thiên tai, dịch bệnh…

Phát biểu kết luận cuộc làm việc, Thủ tướng Phạm Minh Chính một lần nữa nhấn mạnh vai trò chiến lược của vùng ĐBSCL, ý nghĩa quan trọng của việc phát triển hạ tầng giao thông đối với vùng khi tạo không gian phát triển mới, các khu công nghiệp, đô thị, dịch vụ mới, thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết các điểm nghẽn của vùng, nhất là về hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực.

Thủ tướng nêu rõ, các công việc đã được các bộ, ngành và các địa phương vùng ĐBSCL triển khai thời gian qua về đầu tư công, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông cơ bản là suôn sẻ, đúng hướng, đạt những kết quả rất cơ bản, đáng mừng, đáng hoan nghênh. Thủ tướng cảm ơn và đánh giá cao nỗ lực, quyết tâm, sự vào cuộc của các bộ, ngành, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các địa phương vùng ĐBSCL, các doanh nghiệp.

Tính chung trên cả nước, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, chúng ta đã khánh thành và đưa vào khai thác thêm 566 km đường cao tốc, nâng tổng số đường cao tốc của cả nước lên 1.729 km. Nếu chúng ta quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt thì mục tiêu 3.000 km vào năm 2025 là khả thi cao và có thể vượt, tạo tiền đề, cơ sở để thực hiện thành công mục tiêu 5.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2030.

Bên cạnh đó, khối lượng công việc lớn và phức tạp nên không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc và các ý kiến tại cuộc làm việc về cơ bản đã tìm được "đầu ra" cho các vấn đề cần giải quyết cho các dự án tại ĐBSCL.

Để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án, giải quyết các khó khăn, vướng mắc, Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp.

Trước hết, Chính phủ, Thủ tướng đã có nhiều chỉ đạo về bảo đảm nguồn vật liệu xây dựng. Thủ tướng chỉ đạo và phân công Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà tiếp tục quyết liệt chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, xử lý bảo đảm nguồn vật liệu cho các dự án trọng điểm ngành GTVT, trong đó có các dự án vùng ĐBSCL. Nghiên cứu phương án sử dụng cát biển làm nguyên vật liệu đắp nền và nghiên cứu các phương án xây dựng cầu cạn cao tốc.

Các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, đặc biệt là Bộ GTVT và các tỉnh, thành phố được giao làm cơ quan chủ quản dự án tập trung quyết liệt chỉ đạo, yêu cầu ban quản lý dự án, tư vấn giám sát và các nhà thầu phải phát huy tinh thần trách nhiệm cao nhất trong triển khai các dự án, hoàn thiện các thủ tục quy định.

Thủ tướng nhấn mạnh, cần nghiêm túc quán triệt các yêu cầu trong triển khai các dự án: Phải bảo đảm chất lượng; phải bảo đảm tiến độ và phấn đấu sớm hơn; phải bảo đảm an toàn, kỹ thuật, mỹ thuật, môi trường sinh thái và đặc biệt không để thiếu nguyên vật liệu; không được đội vốn bất hợp lý, không chia nhỏ gói thầu; chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, lãng phí ở tất cả các khâu; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người dân, doanh nghiệp; kịp thời khen thưởng khi làm tốt và kịp thời xử lý sai phạm.

Rút kinh nghiệm từ việc triển khai các dự án cao tốc giai đoạn trước và phát huy tối đa những kết quả đã đạt được, Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố chỉ đạo các chủ đầu tư, nhất là người đứng đầu cần bám sát thực tiễn, bám sát dự án, quyết liệt trong điều hành, quản lý trong suốt quá trình thực hiện dự án. Đồng chí Bí thư cấp ủy trực tiếp chỉ đạo, chính quyền vào cuộc, tích cực đi kiểm tra thường xuyên, vừa xây dựng kế hoạch, vừa xây dựng chương trình, huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để giám sát, quản lý chất lượng, đẩy nhanh tiến độ các dự án.

Các bộ, ngành liên quan phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố có dự án đi qua sớm hoàn thành các nhiệm vụ được giao (giải phóng mặt bằng, tái định cư, thẩm định các dự án thành phần,...); tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, vượt qua mọi thách thức để triển khai dự án, kiểm soát tiến độ. Các nhà thầu khẩn trương huy động nhân lực, phương tiện thi công 3 ca 4 kíp. Các đơn vị tư vấn nâng cao trách nhiệm, làm việc chuyên nghiệp, độc lập, thường xuyên kiểm tra, giám sát bảo đảm an toàn, chất lượng, tiến độ; tuyệt đối không vì lợi ích cá nhân, không hạ thấp tiêu chuẩn, hạ thấp giám sát, tích cực phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí...

Đối với các dự án chưa hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng, Thủ tướng đề nghị các cấp ủy đảng, UBND các tỉnh, thành phố triển khai công tác giải phóng mặt bằng, di dời hạ tầng kỹ thuật, bảo đảm bàn giao 100% diện tích mặt bằng trong quý III/2023 (chậm nhất trước ngày 31/12/2023). Đặc biệt quan tâm đến công tác tái định cư, hỗ trợ ổn định sản xuất để người dân có nơi ở mới, có công việc mới, sinh kế mới ít nhất bằng và tốt hơn nơi cũ.

Cho ý kiến về một số dự án cụ thể, Thủ tướng nêu rõ, với dự án cao tốc Cao Lãnh - An Hữu, UBND tỉnh Tiền Giang chỉ đạo chủ đầu tư dự án phối hợp chặt chẽ với Bộ GTVT để khẩn trương hoàn chỉnh hồ sơ, trình Thủ tướng điều chỉnh chủ trương đầu tư trong tháng 7/2023.

Với dự án cao tốc đoạn Cần Thơ - Cà Mau, UBND các tỉnh tập trung giải quyết các vướng mắc để bàn giao toàn bộ mặt bằng trong tháng 7/2023; UBND các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long quyết liệt chỉ đạo các sở, ngành căn cứ các hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường để triển khai thủ tục giao mỏ nguyên vật liệu cho các nhà thầu khai thác, không để phát sinh các thủ tục hành chính làm ảnh hưởng đến tiến độ dự án; các tỉnh An Giang, Vĩnh Long sớm xác định nguồn cấp cho khối lượng cát còn lại của các dự án, trong đó ưu tiên cấp đủ nhu cầu năm 2023; chỉ đạo các sở, ngành, địa phương khẩn trương thực hiện các thủ tục để nhà thầu dự án Cần Thơ - Cà Mau có thể khai thác các mỏ trong tháng 7/2023.

Với các dự án thành phần thuộc cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, chủ đầu tư tiểu dự án giải phóng mặt bằng bám sát tiến độ đã lập để thực hiện công việc liên quan, đảm bảo bàn giao diện tích còn lại trước ngày 31/12/2023; UBND TP. Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang sớm làm việc với UBND tỉnh An Giang để xác định cụ thể các mỏ cấp cho dự án và hoàn thành thủ tục khai thác.

Với các dự án ODA, Thủ tướng nêu rõ chúng ta còn nhiều dư địa để tiếp tục mở rộng, linh hoạt hơn trong việc vay vốn ODA khi nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát tốt theo Nghị quyết của Quốc hội giao.

Thủ tướng đồng ý chủ trương vay ODA từ 6 đối tác phát triển lớn nhất (đã có cam kết) với mức vốn 2,53 tỷ USD cho 16 dự án phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu của vùng ĐBSCL để thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ; đồng ý cấp phát 90% vốn cho các dự án này.

Thủ tướng đề nghị các cơ quan, cá nhân tham gia dự án cần nâng cao ý thức trách nhiệm với công việc, với ngành, với nhân dân, với Tổ quốc; nỗ lực cao hơn nữa, quyết tâm cao hơn nữa, hành động quyết liệt hơn nữa, đổi mới tư duy, sáng tạo hơn nữa trong cách nghĩ, cách làm để hoàn thành tốt nhiệm vụ góp phần triển khai các dự án, góp phần hoàn thành mục tiêu Đại hội Đảng đã đề ra, vì sự hùng cường, thịnh vượng của đất nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Thủ tướng yêu cầu đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đường bộ cao tốc trọng điểm

Thủ tướng yêu cầu đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đường bộ cao tốc trọng điểm

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 1250/CĐ-TTg ngày 29/12/2022 chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đường bộ cao tốc quan trọng quốc gia, trọng điểm.

P.V

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 118,000 ▼500K 120,000 ▼500K
AVPL/SJC HCM 118,000 ▼500K 120,000 ▼500K
AVPL/SJC ĐN 118,000 ▼500K 120,000 ▼500K
Nguyên liệu 9999 - HN 10,970 ▼50K 11,250 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 10,960 ▼50K 11,240 ▼50K
Cập nhật: 14/05/2025 12:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 113.000 115.500
TPHCM - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Hà Nội - PNJ 113.000 115.500
Hà Nội - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Đà Nẵng - PNJ 113.000 115.500
Đà Nẵng - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Miền Tây - PNJ 113.000 115.500
Miền Tây - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 113.000
Giá vàng nữ trang - SJC 118.000 ▼500K 120.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 113.000
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 113.000 115.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 112.800 115.300
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 112.690 115.190
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 111.980 114.480
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 111.750 114.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 79.130 86.630
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 60.100 67.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 40.620 48.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 103.220 105.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.980 70.480
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 67.600 75.100
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 71.050 78.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.890 43.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.700 38.200
Cập nhật: 14/05/2025 12:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,090 11,540
Trang sức 99.9 11,080 11,530
NL 99.99 10,750 ▼100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,750 ▼100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,300 11,600
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,300 11,600
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,300 11,600
Miếng SJC Thái Bình 11,800 ▼50K 12,000 ▼50K
Miếng SJC Nghệ An 11,800 ▼50K 12,000 ▼50K
Miếng SJC Hà Nội 11,800 ▼50K 12,000 ▼50K
Cập nhật: 14/05/2025 12:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16290 16558 17139
CAD 18109 18384 18998
CHF 30289 30664 31312
CNY 0 3358 3600
EUR 28406 28672 29705
GBP 33721 34109 35056
HKD 0 3194 3396
JPY 169 173 179
KRW 0 17 19
NZD 0 15119 15710
SGD 19401 19681 20209
THB 695 758 812
USD (1,2) 25694 0 0
USD (5,10,20) 25733 0 0
USD (50,100) 25761 25795 26137
Cập nhật: 14/05/2025 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,780 25,780 26,140
USD(1-2-5) 24,749 - -
USD(10-20) 24,749 - -
GBP 34,104 34,197 35,112
HKD 3,270 3,279 3,379
CHF 30,478 30,573 31,424
JPY 172.66 172.97 180.68
THB 743.09 752.26 805.59
AUD 16,563 16,623 17,070
CAD 18,378 18,437 18,932
SGD 19,610 19,671 20,291
SEK - 2,625 2,717
LAK - 0.92 1.27
DKK - 3,829 3,962
NOK - 2,461 2,550
CNY - 3,564 3,661
RUB - - -
NZD 15,086 15,227 15,669
KRW 17.03 17.76 19.09
EUR 28,605 28,628 29,847
TWD 770.99 - 933.43
MYR 5,639.84 - 6,368.11
SAR - 6,805.15 7,162.95
KWD - 82,177 87,492
XAU - - -
Cập nhật: 14/05/2025 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,770 25,780 26,120
EUR 28,452 28,566 29,668
GBP 33,916 34,052 35,023
HKD 3,262 3,275 3,381
CHF 30,354 30,476 31,375
JPY 171.89 172.58 179.66
AUD 16,458 16,524 17,055
SGD 19,594 19,673 20,210
THB 759 762 796
CAD 18,293 18,366 18,877
NZD 15,157 15,665
KRW 17.53 19.31
Cập nhật: 14/05/2025 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25770 25770 26130
AUD 16455 16555 17123
CAD 18286 18386 18941
CHF 30515 30545 31433
CNY 0 3561 0
CZK 0 1130 0
DKK 0 3930 0
EUR 28678 28778 29553
GBP 34011 34061 35174
HKD 0 3355 0
JPY 172.91 173.91 180.42
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.7 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6333 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15219 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19554 19684 20415
THB 0 723.6 0
TWD 0 845 0
XAU 11850000 11850000 12050000
XBJ 11000000 11000000 12050000
Cập nhật: 14/05/2025 12:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,780 25,830 26,180
USD20 25,780 25,830 26,180
USD1 25,780 25,830 26,180
AUD 16,505 16,655 17,719
EUR 28,735 28,885 30,057
CAD 18,237 18,337 19,649
SGD 19,635 19,785 20,252
JPY 173.45 174.95 179.53
GBP 34,124 34,274 35,550
XAU 11,798,000 0 12,002,000
CNY 0 3,446 0
THB 0 759 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 14/05/2025 12:45