Thái Lan cạn vàng vì đập thủy điện của Trung Quốc, Lào

08:19 | 28/05/2021

1,078 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo các chuyên gia, nguồn thức ăn, sinh kế và môi trường sống của hàng triệu người dân hai bờ sông Mekong đang rơi vào tình trạng nguy hiểm khi các doanh nghiệp đổ xô xây đập thủy điện.

Dưới cái nắng chói chang, hai người phụ nữ lớn tuổi Thái Lan cặm cụi mò vàng dọc bờ sông Mekong. Họ cẩn thận sàng lọc bùn đất ở từng khe đá bụi rong và cả những ký ức của mình về thời kỳ hạnh phúc bên cạnh một dòng sông đang bị thay đổi vĩnh viễn bởi các đập thủy điện ở thượng nguồn.

Khi chảy tới chỗ họ ở Loei tại biên giới Thái Lan - Lào, dòng sông Mekong đã gồng mình chịu tới hàng chục con đập. 11 trong số đó là của Trung Quốc và một của Lào. Người dân địa phương và các chuyên gia cho biết những con đập này đã hủy hoại môi trường sống của cá và thay đổi dòng chảy tự nhiên theo mùa của dòng sông, thậm chí thay đổi cả màu sắc của nó.

Thái Lan cạn vàng vì đập thủy điện của Trung Quốc, Lào - 1
Người dân đãi vàng ở Thái Lan than hết vàng (Ảnh: SCMP).

Rodjana Thepwong, một người phụ nữ 64 tuổi với sức vóc rắn rỏi và nụ cười dễ mến cho hay, những người thợ đãi vàng thường lội ra giữa dòng sông vào mùa khô để lấy bùn đãi.

"Lớp bùn đá bên dưới từng chứa đầy vàng. Có lần tôi tìm được những mẩu vàng to bằng hạt me. Nhưng từ khi đập thủy điện được xây dựng hàng loạt ở phía thượng nguồn, nước sông dâng lên và hạ xuống một cách ngẫu nhiên, khiến hệ sinh thái mất cân bằng. Chúng tôi phải di chuyển về phía gần bờ, nơi có rất ít vàng", bà Rodjana vừa nói vừa đi tới bờ sông dùng cuốc để loại bỏ bùn đá.

Nếu gặp may mắn, bà Rodjana và người bạn thời thơ ấu của mình là Hieng Chantarasee, 70 tuổi, có thể kiếm được 500 baht (15 USD) từ những mẩu vàng nhỏ mà họ đãi được.

Thái Lan cạn vàng vì đập thủy điện của Trung Quốc, Lào - 2
Vàng được đãi từ sông Mekong giờ chỉ là những mẩu rất nhỏ (Ảnh: SCMP).

Họ chỉ là hai trong số 60 triệu người đang sống phụ thuộc vào sông Mekong, dòng sông chảy từ Trung Quốc, qua Myanmar, Lào, Thái Lan và Campuchia trước khi đổ vào khu vực Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.

Theo các chuyên gia, nguồn thức ăn, sinh kế và môi trường sống của hàng triệu người này đang rơi vào tình trạng nguy hiểm khi các doanh nghiệp đổ xô xây đập thủy điện.

"Tôi bắt đầu nhận ra mọi thứ đang thay đổi khi cá chết và nước đột ngột dâng cao", bà Hieng nói khi đang ngồi đãi vàng dưới sông. Những thay đổi ấy ngày càng rõ rệt. Càng về phía hạ lưu, nước sông đột nhiên có màu xanh ngọc hồi tháng 2 năm nay, một hiện tượng cho thấy phù sa đang biến mất, giới chuyên gia cho hay. Tất nhiên, biến đổi khí hậu cũng là một phần nguyên nhân khi tạo ra mùa mưa lớn hơn và hạn hán kéo dài hơn.

Tuy nhiên, bà Rodjana và Hieng đều cảm thấy sự hình thành của các con đập chắc chắn là nguyên nhân khiến "sức khỏe" của sông Mekong, nguồn cung thực phẩm và thu nhập cho nhiều thế hệ gia đình sống xung quanh, giảm sút.

"Thật đáng buồn. Nhưng chúng tôi có thể làm gì? Những gì chúng tôi muốn là đừng xây thêm con đập nào nữa", bà Rodjana chia sẻ.

Tuy nhiên, đây rõ ràng là một hy vọng không thể thành hiện thực.

Một con đập mới được dự kiến xây ở phía thượng lưu thuộc Lào, cách nơi họ đãi vàng khoảng 2 km. Con đập mới có tên Sanakham này là dự án đầu tư 2 tỷ USD do công ty con thuộc Datang International Power Generation Company của Trung Quốc phát triển. Việc xây dựng dự kiến bắt đầu từ cuối năm ngoái và kết thúc vào năm 2028, theo Ủy ban sông Mekong.

Điện do Sanakham sản xuất sẽ được xuất khẩu chủ yếu sang Thái Lan. Trong 2 tỷ USD tiền đầu tư, chỉ có khoảng 28 triệu USD, tương đương 1,4%, được dùng để phát triển các biện pháp giảm thiểu tác động tới môi trường và xã hội.

Thái Lan đang dần quay lưng với dự án đập Sanakham trong bối cảnh các cộng đồng dân cư xung quanh sông Mekong vận động tạm dừng phát triển đập và quan chức bắt đầu công khai tranh luận về nhu cầu sử dụng điện do ngành thủy điện tạo ra.

"Sự phát triển của sông Mekong đã đạt đến điểm không thể quay trở lại. Những gì chúng ta có thể làm bây giờ là tập trung vào cách giảm thiểu tác động tới môi trường, việc này có lẽ mất ít nhất 15 năm", theo ông Tosapol Wongwan, trợ lý của Tổng thư ký Văn phòng Tài nguyên nước Quốc gia Thái Lan.

Theo Dân trí

Sợ nợ Trung Quốc Sợ nợ Trung Quốc "ngập đầu", quốc đảo Samoa hoãn dự án cảng 100 triệu USD
Bất chấp Covid-19, hàng Trung Quốc vẫn dồn dập đổ về Việt NamBất chấp Covid-19, hàng Trung Quốc vẫn dồn dập đổ về Việt Nam
Vốn Trung Quốc ồ ạt đổ vào Việt Nam, vượt qua cả vốn đầu tư của Nhật, HànVốn Trung Quốc ồ ạt đổ vào Việt Nam, vượt qua cả vốn đầu tư của Nhật, Hàn
Đầu tư phương Tây vào Việt Nam chỉ bằng 1/3 vốn của Trung QuốcĐầu tư phương Tây vào Việt Nam chỉ bằng 1/3 vốn của Trung Quốc
Các nước châu Phi đồng loạt xin khoanh nợ, Trung Quốc lao đaoCác nước châu Phi đồng loạt xin khoanh nợ, Trung Quốc lao đao

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC HCM 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 73,650 ▲400K 74,600 ▲400K
Nguyên liệu 999 - HN 73,550 ▲400K 74,500 ▲400K
AVPL/SJC Cần Thơ 82,300 ▲500K 84,500 ▲500K
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
TPHCM - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Hà Nội - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Hà Nội - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Đà Nẵng - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Miền Tây - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Miền Tây - SJC 82.800 ▲800K 85.000 ▲700K
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.300 ▲300K 75.100 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.300 ▲300K
Giá vàng nữ trang - SJC 82.600 ▲300K 84.800 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.300 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.250 ▲350K 74.050 ▲350K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.290 ▲260K 55.690 ▲260K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.070 ▲200K 43.470 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.560 ▲150K 30.960 ▲150K
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,335 ▲30K 7,540 ▲30K
Trang sức 99.9 7,325 ▲30K 7,530 ▲30K
NL 99.99 7,330 ▲30K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,310 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,400 ▲30K 7,570 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,400 ▲30K 7,570 ▲30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,400 ▲30K 7,570 ▲30K
Miếng SJC Thái Bình 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 8,280 ▲50K 8,480 ▲50K
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,800 ▲800K 85,000 ▲700K
SJC 5c 82,800 ▲800K 85,020 ▲700K
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,800 ▲800K 85,030 ▲700K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,350 ▲250K 75,050 ▲250K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,350 ▲250K 75,150 ▲250K
Nữ Trang 99.99% 73,150 ▲250K 74,250 ▲250K
Nữ Trang 99% 71,515 ▲248K 73,515 ▲248K
Nữ Trang 68% 48,145 ▲170K 50,645 ▲170K
Nữ Trang 41.7% 28,615 ▲104K 31,115 ▲104K
Cập nhật: 26/04/2024 13:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,112.17 16,274.92 16,797.08
CAD 18,090.44 18,273.17 18,859.45
CHF 27,072.22 27,345.68 28,223.04
CNY 3,429.67 3,464.31 3,576.00
DKK - 3,579.44 3,716.52
EUR 26,496.28 26,763.92 27,949.19
GBP 30,880.63 31,192.55 32,193.34
HKD 3,156.04 3,187.92 3,290.20
INR - 303.48 315.61
JPY 157.98 159.58 167.21
KRW 15.95 17.72 19.33
KWD - 82,209.56 85,496.44
MYR - 5,249.99 5,364.51
NOK - 2,265.53 2,361.72
RUB - 261.73 289.74
SAR - 6,740.29 7,009.77
SEK - 2,281.68 2,378.56
SGD 18,179.62 18,363.26 18,952.42
THB 605.24 672.49 698.24
USD 25,118.00 25,148.00 25,458.00
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,303 16,403 16,853
CAD 18,307 18,407 18,957
CHF 27,283 27,388 28,188
CNY - 3,456 3,566
DKK - 3,593 3,723
EUR #26,700 26,735 27,995
GBP 31,286 31,336 32,296
HKD 3,160 3,175 3,310
JPY 158.87 158.87 166.82
KRW 16.6 17.4 20.2
LAK - 0.89 1.25
NOK - 2,270 2,350
NZD 14,850 14,900 15,417
SEK - 2,278 2,388
SGD 18,171 18,271 19,001
THB 631.13 675.47 699.13
USD #25,120 25,120 25,458
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 26/04/2024 13:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25115 25115 25445
AUD 16316 16366 16868
CAD 18338 18388 18839
CHF 27474 27524 28086
CNY 0 3458.5 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26898 26948 27650
GBP 31401 31451 32111
HKD 0 3140 0
JPY 160.45 160.95 165.46
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0313 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14883 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18403 18453 19014
THB 0 643.1 0
TWD 0 779 0
XAU 8250000 8250000 8420000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 26/04/2024 13:00