Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

15:00 | 08/09/2022

380 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Trong bối cảnh nhiều quốc gia tìm cách ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt sau Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và thỏa thuận Net-zero tại Hội nghị Thượng đỉnh khí hậu COP26, việc sử dụng năng lượng tái tạo nhằm thay thế năng lượng hóa thạch dần trở thành xu thế tất yếu trên toàn cầu.
Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo
Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

Điện gió lan tỏa tới 130 quốc gia

Trong bối cảnh giá năng lượng hóa thạch biến động mạnh do khan hiếm tài nguyên cũng như chiến tranh (khu vực Trung Đông, Nga - Ukraine...), các nước bắt đầu quan tâm hơn đến phát triển điện gió. Đây được xem là chìa khóa để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và thúc đẩy nền kinh tế không carbon. Trong đó, điện gió ngoài khơi là một nguồn năng lượng tái tạo có triển vọng phát triển lớn. Ưu điểm chính của điện gió ngoài khơi là khả năng tạo ra điện cao hơn vì tốc độ gió trên đại dương thường ổn định hơn và mạnh hơn so với trên đất liền. Ngoài ra, một điểm cộng khác là thực tế không giới hạn các địa điểm ngoài khơi để triển khai trang trại điện gió mà ít hoặc không ảnh hưởng đến xung đột dân cư. Hơn nữa, những tiến bộ gần đây trong công nghệ điện gió ngoài khơi giúp giảm chi phí vốn, lắp đặt và vận hành.

Theo số liệu thống kê, hiện đã có 130 nước trên thế giới phát triển điện gió. Tổng công suất điện gió của thế giới tăng nhanh trong khoảng 1 thập niên gần đây, đến năm 2020 lên tới 733 GW, cao gần gấp 2 lần so với năm 2011.

Kể từ năm 2010, hơn một nửa tổng lượng điện gió mới đã được bổ sung bên ngoài các thị trường truyền thống là châu Âu và Bắc Mỹ, chủ yếu do sự bùng nổ điện gió liên tục ở Trung Quốc và Ấn Độ.

Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

Năm 2020, tỷ lệ sử dụng điện gió đạt 56% ở Đan Mạch, Uruguay 40%, Lithuania 36%, Ireland 35%, Bồ Đào Nha 23%, Anh 24%, Đức 23%, Tây Ban Nha 20%, Hy Lạp 18%, Thụy Điển 16%, EU 15%, Mỹ 8% và Trung Quốc 6%. Hiện Vương quốc Anh là nước đứng đầu thế giới về phát triển điện gió ngoài khơi, chiếm 40% sản lượng điện gió toàn cầu; Đức đứng thứ hai, chiếm 27%; Đan Mạch chiếm 10,5%; Trung Quốc chiếm 8,4%, Bỉ chiếm 6,0%.

Hiện nay, các trang trại điện gió ngoài khơi chủ yếu phát triển ở các nước Tây Âu, Trung Quốc, châu Mỹ. Tại khu vực Biển Đông, phía Bắc xung quanh eo biển Đài Loan là những nơi có nhiều dự án điện gió được triển khai. Khu vực phía Nam Biển Đông, các dự án điện gió của Việt Nam cũng được phát triển mạnh.

Những nhà tiên phong xuất khẩu điện mặt trời

Cùng với sự gia tăng nhu cầu về năng lượng tái tạo, một số quốc gia đã linh hoạt trở thành những nhà tiên phong xuất khẩu điện mặt trời.

Ở Đông Nam Á, quốc đảo Indonesia đang dẫn đầu cuộc đua điện mặt trời. Những tháng gần đây, 5 dự án xuất khẩu điện mặt trời khổng lồ đã được đề xuất ở Indonesia, trong đó có việc xây dựng một công viên điện mặt trời 3,5 GW và một cơ sở lưu trữ pin 12 GWh trên 4.000 ha đất trên quần đảo Riau của Indonesia. Điện mặt trời được tạo ra sau đó sẽ được xuất khẩu sang Singapore thông qua một tuyến cáp ngầm dưới biển.

Hiện tại, Singapore sản xuất 95% điện năng từ khí đốt nhập khẩu. Năm ngoái, Chính phủ Singapore đã công bố mục tiêu nhập khẩu tới 4 GW điện carbon thấp, tương đương 30% nhu cầu vào năm 2035, do đó, tạo cơ hội xuất khẩu điện mặt trời cho các quốc gia như Indonesia.

Trong khi đó, xứ sở chuột túi Australia cũng có những lợi thế về tự nhiên, bao gồm nhiều đất chưa sử dụng để xây dựng một nhà máy điện mặt trời quy mô 12.000 ha và thời tiết thuận lợi để sản xuất điện mặt trời.

Ở Bắc Phi, Maroc cũng được đánh giá là quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các nguồn năng lượng tái tạo đáng kể. Từ năm 2009, Maroc đã nâng công suất điện mặt trời lên gấp 16 lần và điện gió lên gấp 6 lần vào năm 2020. Mặc dù Maroc đã bỏ lỡ mục tiêu đầy tham vọng là có 42% tổng công suất lắp đặt từ năng lượng tái tạo vào năm 2020 khi chỉ đạt 37%, nhưng tiến độ phát triển năng lượng tái tạo vẫn rất đáng khích lệ. Maroc đã có 2 đường cáp điện nối nước này với Tây Ban Nha.

Trong khi đó, vào tháng 4-2022, Công ty Xlinks của Anh đã công bố kế hoạch xây dựng 1 nhà máy điện mặt trời và điện gió kết hợp 10,5 GW với bộ lưu trữ pin tại chỗ, cũng như 1 cáp ngầm dài 3.800km, có khả năng chuyển tải điện mặt trời và điện gió đến Tây Ban Nha.

Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

Thủy triều là nguồn tài nguyên năng lượng vô tận

Kỳ vọng về năng lượng thủy triều

Trong nỗ lực bảo đảm an ninh năng lượng lâu dài, năng lượng thủy triều được đưa vào bàn tròn các cuộc thảo luận xung quanh vấn đề năng lượng tái tạo.

Tại Vương quốc Anh, một số dự án thủy triều đang được tiến hành trên các khu vực khác nhau. Dự án Morlais trị giá 39 triệu USD trên một hòn đảo ngoài khơi xứ Wales đang được tài trợ bởi Liên minh châu Âu (EU). Các turbine được thiết lập để lắp đặt trên diện tích 13 dặm vuông, khiến khu vực này trở thành một trong những địa điểm cung cấp năng lượng thủy triều lớn nhất thế giới. Dự án thu hút mức đầu tư cao như vậy vì nó cung cấp một giải pháp thay thế đáng tin cậy hơn cho điện mặt trời và điện gió nhờ khả năng dự đoán thủy triều chính xác.

Trong khi đó, tại Canada, các công ty năng lượng đang đề xuất rằng, các công nghệ năng lượng thủy triều mới có thể tốt hơn đáng kể so với phát triển điện mặt trời do hiệu quả và độ tin cậy cao. Công ty năng lượng Idenergie có trụ sở tại Montreal đang giới thiệu một loại turbine thủy triều mới, sẽ không làm gián đoạn sinh vật biển trong khu vực và có thể cung cấp năng lượng liên tục cả ngày lẫn đêm.

Đây là những tín hiệu đáng mừng trong bối cảnh các cường quốc đang ráo riết tìm các giải pháp thay thế lâu dài cho dầu và khí đốt trong tương lai.

Năm 2020, tỷ lệ sử dụng điện gió đạt 56% ở Đan Mạch, Uruguay 40%, Lithuania 36%, Ireland 35%, Bồ Đào Nha 23%, Anh 24%, Đức 23%, Tây Ban Nha 20%, Hy Lạp 18%, Thụy Điển 16%, EU 15%, Mỹ 8% và Trung Quốc 6%. Hiện Vương quốc Anh là nước đứng đầu thế giới về phát triển điện gió ngoài khơi, chiếm 40% sản lượng điện gió toàn cầu; Đức đứng thứ hai, chiếm 27%; Đan Mạch chiếm 10,5%; Trung Quốc chiếm 8,4%, Bỉ chiếm 6,0%.

Hiện nay, các trang trại điện gió ngoài khơi chủ yếu phát triển ở các nước Tây Âu, Trung Quốc, châu Mỹ. Tại khu vực Biển Đông, phía Bắc xung quanh eo biển Đài Loan là những nơi có nhiều dự án điện gió được triển khai. Khu vực phía Nam Biển Đông, các dự án điện gió của Việt Nam cũng được phát triển mạnh.

Minh Quân

Quảng Trị định hướng trở thành trung tâm năng lượng của miền TrungQuảng Trị định hướng trở thành trung tâm năng lượng của miền Trung
Ấn Độ trở thành trung tâm năng lượng tái tạo của thế giới trong vài thập kỷ tớiẤn Độ trở thành trung tâm năng lượng tái tạo của thế giới trong vài thập kỷ tới
Tận hưởng kỳ nghỉ “xanh” với những điểm đến hòa cùng thiên nhiênTận hưởng kỳ nghỉ “xanh” với những điểm đến hòa cùng thiên nhiên
10 quốc gia dẫn đầu về năng lượng tái tạo10 quốc gia dẫn đầu về năng lượng tái tạo
Bản tin Năng lượng xanh: BlackRock đầu tư 700 triệu USD cho dự án năng lượng tái tạo và lưu trữ pin của ÚcBản tin Năng lượng xanh: BlackRock đầu tư 700 triệu USD cho dự án năng lượng tái tạo và lưu trữ pin của Úc
Phát triển hệ thống điện theo hướng xanhPhát triển hệ thống điện theo hướng xanh
Mỹ: Nhà đầu tư rót tiền vào các quỹ năng lượng xanhMỹ: Nhà đầu tư rót tiền vào các quỹ năng lượng xanh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,600 84,800
AVPL/SJC HCM 82,600 84,800
AVPL/SJC ĐN 82,600 84,800
Nguyên liệu 9999 - HN 74,500 75,450
Nguyên liệu 999 - HN 74,400 75,350
AVPL/SJC Cần Thơ 82,600 84,800
Cập nhật: 27/04/2024 04:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 73.800 75.600
TPHCM - SJC 83.000 85.200
Hà Nội - PNJ 73.800 75.600
Hà Nội - SJC 83.000 85.200
Đà Nẵng - PNJ 73.800 75.600
Đà Nẵng - SJC 83.000 85.200
Miền Tây - PNJ 73.800 75.600
Miền Tây - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - PNJ 73.800 75.600
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 73.800
Giá vàng nữ trang - SJC 83.000 85.200
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn PNJ (24K) 73.800
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 24K 73.700 74.500
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 18K 54.630 56.030
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 14K 42.330 43.730
Giá vàng nữ trang - Nữ trang 10K 29.740 31.140
Cập nhật: 27/04/2024 04:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,385 7,590
Trang sức 99.9 7,375 7,580
NL 99.99 7,380
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,360
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,450 7,620
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,450 7,620
Miếng SJC Thái Bình 8,320 8,520
Miếng SJC Nghệ An 8,320 8,520
Miếng SJC Hà Nội 8,320 8,520
Cập nhật: 27/04/2024 04:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 83,000 85,200
SJC 5c 83,000 85,220
SJC 2c, 1C, 5 phân 83,000 85,230
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 73,800 75,500
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 73,800 75,600
Nữ Trang 99.99% 73,700 74,700
Nữ Trang 99% 71,960 73,960
Nữ Trang 68% 48,451 50,951
Nữ Trang 41.7% 28,803 31,303
Cập nhật: 27/04/2024 04:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,121.66 16,284.50 16,820.26
CAD 18,077.48 18,260.08 18,860.83
CHF 27,068.64 27,342.06 28,241.61
CNY 3,423.46 3,458.04 3,572.35
DKK - 3,577.18 3,717.11
EUR 26,475.36 26,742.79 27,949.19
GBP 30,873.52 31,185.37 32,211.36
HKD 3,153.19 3,185.04 3,289.82
INR - 303.14 315.51
JPY 156.74 158.32 166.02
KRW 15.92 17.69 19.31
KWD - 82,091.26 85,440.87
MYR - 5,259.06 5,378.02
NOK - 2,255.10 2,352.71
RUB - 262.74 291.09
SAR - 6,734.96 7,009.77
SEK - 2,276.86 2,375.42
SGD 18,143.91 18,327.18 18,930.14
THB 605.58 672.87 699.19
USD 25,088.00 25,118.00 25,458.00
Cập nhật: 27/04/2024 04:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Vietinbank
AUD 16,233 16,253 16,853
CAD 18,228 18,238 18,938
CHF 27,206 27,226 28,176
CNY - 3,427 3,567
DKK - 3,544 3,714
EUR #26,239 26,449 27,739
GBP 31,095 31,105 32,275
HKD 3,107 3,117 3,312
JPY 156.48 156.63 166.18
KRW 16.2 16.4 20.2
LAK - 0.69 1.39
NOK - 2,217 2,337
NZD 14,797 14,807 15,387
SEK - 2,241 2,376
SGD 18,043 18,053 18,853
THB 632.05 672.05 700.05
USD #25,060 25,060 25,458
Cập nhật: 27/04/2024 04:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,150.00 25,158.00 25,458.00
EUR 26,649.00 26,756.00 27,949.00
GBP 31,017.00 31,204.00 32,174.00
HKD 3,173.00 3,186.00 3,290.00
CHF 27,229.00 27,338.00 28,186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16,234.00 16,299.00 16,798.00
SGD 18,295.00 18,368.00 18,912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18,214.00 18,287.00 18,828.00
NZD 14,866.00 15,367.00
KRW 17.65 19.29
Cập nhật: 27/04/2024 04:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25135 25135 25455
AUD 16392 16442 16947
CAD 18369 18419 18874
CHF 27560 27610 28172
CNY 0 3461.3 0
CZK 0 1020 0
DKK 0 3540 0
EUR 26970 27020 27722
GBP 31472 31522 32177
HKD 0 3140 0
JPY 159.97 160.47 164.98
KHR 0 5.6713 0
KRW 0 17.6 0
LAK 0 1.0325 0
MYR 0 5445 0
NOK 0 2260 0
NZD 0 14907 0
PHP 0 385 0
SEK 0 2360 0
SGD 18437 18487 19040
THB 0 645.7 0
TWD 0 779 0
XAU 8270000 8270000 8460000
XBJ 6000000 6000000 6550000
Cập nhật: 27/04/2024 04:45