Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

15:00 | 08/09/2022

392 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Trong bối cảnh nhiều quốc gia tìm cách ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt sau Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và thỏa thuận Net-zero tại Hội nghị Thượng đỉnh khí hậu COP26, việc sử dụng năng lượng tái tạo nhằm thay thế năng lượng hóa thạch dần trở thành xu thế tất yếu trên toàn cầu.
Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo
Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

Điện gió lan tỏa tới 130 quốc gia

Trong bối cảnh giá năng lượng hóa thạch biến động mạnh do khan hiếm tài nguyên cũng như chiến tranh (khu vực Trung Đông, Nga - Ukraine...), các nước bắt đầu quan tâm hơn đến phát triển điện gió. Đây được xem là chìa khóa để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và thúc đẩy nền kinh tế không carbon. Trong đó, điện gió ngoài khơi là một nguồn năng lượng tái tạo có triển vọng phát triển lớn. Ưu điểm chính của điện gió ngoài khơi là khả năng tạo ra điện cao hơn vì tốc độ gió trên đại dương thường ổn định hơn và mạnh hơn so với trên đất liền. Ngoài ra, một điểm cộng khác là thực tế không giới hạn các địa điểm ngoài khơi để triển khai trang trại điện gió mà ít hoặc không ảnh hưởng đến xung đột dân cư. Hơn nữa, những tiến bộ gần đây trong công nghệ điện gió ngoài khơi giúp giảm chi phí vốn, lắp đặt và vận hành.

Theo số liệu thống kê, hiện đã có 130 nước trên thế giới phát triển điện gió. Tổng công suất điện gió của thế giới tăng nhanh trong khoảng 1 thập niên gần đây, đến năm 2020 lên tới 733 GW, cao gần gấp 2 lần so với năm 2011.

Kể từ năm 2010, hơn một nửa tổng lượng điện gió mới đã được bổ sung bên ngoài các thị trường truyền thống là châu Âu và Bắc Mỹ, chủ yếu do sự bùng nổ điện gió liên tục ở Trung Quốc và Ấn Độ.

Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

Năm 2020, tỷ lệ sử dụng điện gió đạt 56% ở Đan Mạch, Uruguay 40%, Lithuania 36%, Ireland 35%, Bồ Đào Nha 23%, Anh 24%, Đức 23%, Tây Ban Nha 20%, Hy Lạp 18%, Thụy Điển 16%, EU 15%, Mỹ 8% và Trung Quốc 6%. Hiện Vương quốc Anh là nước đứng đầu thế giới về phát triển điện gió ngoài khơi, chiếm 40% sản lượng điện gió toàn cầu; Đức đứng thứ hai, chiếm 27%; Đan Mạch chiếm 10,5%; Trung Quốc chiếm 8,4%, Bỉ chiếm 6,0%.

Hiện nay, các trang trại điện gió ngoài khơi chủ yếu phát triển ở các nước Tây Âu, Trung Quốc, châu Mỹ. Tại khu vực Biển Đông, phía Bắc xung quanh eo biển Đài Loan là những nơi có nhiều dự án điện gió được triển khai. Khu vực phía Nam Biển Đông, các dự án điện gió của Việt Nam cũng được phát triển mạnh.

Những nhà tiên phong xuất khẩu điện mặt trời

Cùng với sự gia tăng nhu cầu về năng lượng tái tạo, một số quốc gia đã linh hoạt trở thành những nhà tiên phong xuất khẩu điện mặt trời.

Ở Đông Nam Á, quốc đảo Indonesia đang dẫn đầu cuộc đua điện mặt trời. Những tháng gần đây, 5 dự án xuất khẩu điện mặt trời khổng lồ đã được đề xuất ở Indonesia, trong đó có việc xây dựng một công viên điện mặt trời 3,5 GW và một cơ sở lưu trữ pin 12 GWh trên 4.000 ha đất trên quần đảo Riau của Indonesia. Điện mặt trời được tạo ra sau đó sẽ được xuất khẩu sang Singapore thông qua một tuyến cáp ngầm dưới biển.

Hiện tại, Singapore sản xuất 95% điện năng từ khí đốt nhập khẩu. Năm ngoái, Chính phủ Singapore đã công bố mục tiêu nhập khẩu tới 4 GW điện carbon thấp, tương đương 30% nhu cầu vào năm 2035, do đó, tạo cơ hội xuất khẩu điện mặt trời cho các quốc gia như Indonesia.

Trong khi đó, xứ sở chuột túi Australia cũng có những lợi thế về tự nhiên, bao gồm nhiều đất chưa sử dụng để xây dựng một nhà máy điện mặt trời quy mô 12.000 ha và thời tiết thuận lợi để sản xuất điện mặt trời.

Ở Bắc Phi, Maroc cũng được đánh giá là quốc gia có tiềm năng xuất khẩu các nguồn năng lượng tái tạo đáng kể. Từ năm 2009, Maroc đã nâng công suất điện mặt trời lên gấp 16 lần và điện gió lên gấp 6 lần vào năm 2020. Mặc dù Maroc đã bỏ lỡ mục tiêu đầy tham vọng là có 42% tổng công suất lắp đặt từ năng lượng tái tạo vào năm 2020 khi chỉ đạt 37%, nhưng tiến độ phát triển năng lượng tái tạo vẫn rất đáng khích lệ. Maroc đã có 2 đường cáp điện nối nước này với Tây Ban Nha.

Trong khi đó, vào tháng 4-2022, Công ty Xlinks của Anh đã công bố kế hoạch xây dựng 1 nhà máy điện mặt trời và điện gió kết hợp 10,5 GW với bộ lưu trữ pin tại chỗ, cũng như 1 cáp ngầm dài 3.800km, có khả năng chuyển tải điện mặt trời và điện gió đến Tây Ban Nha.

Sôi động cuộc đua năng lượng tái tạo

Thủy triều là nguồn tài nguyên năng lượng vô tận

Kỳ vọng về năng lượng thủy triều

Trong nỗ lực bảo đảm an ninh năng lượng lâu dài, năng lượng thủy triều được đưa vào bàn tròn các cuộc thảo luận xung quanh vấn đề năng lượng tái tạo.

Tại Vương quốc Anh, một số dự án thủy triều đang được tiến hành trên các khu vực khác nhau. Dự án Morlais trị giá 39 triệu USD trên một hòn đảo ngoài khơi xứ Wales đang được tài trợ bởi Liên minh châu Âu (EU). Các turbine được thiết lập để lắp đặt trên diện tích 13 dặm vuông, khiến khu vực này trở thành một trong những địa điểm cung cấp năng lượng thủy triều lớn nhất thế giới. Dự án thu hút mức đầu tư cao như vậy vì nó cung cấp một giải pháp thay thế đáng tin cậy hơn cho điện mặt trời và điện gió nhờ khả năng dự đoán thủy triều chính xác.

Trong khi đó, tại Canada, các công ty năng lượng đang đề xuất rằng, các công nghệ năng lượng thủy triều mới có thể tốt hơn đáng kể so với phát triển điện mặt trời do hiệu quả và độ tin cậy cao. Công ty năng lượng Idenergie có trụ sở tại Montreal đang giới thiệu một loại turbine thủy triều mới, sẽ không làm gián đoạn sinh vật biển trong khu vực và có thể cung cấp năng lượng liên tục cả ngày lẫn đêm.

Đây là những tín hiệu đáng mừng trong bối cảnh các cường quốc đang ráo riết tìm các giải pháp thay thế lâu dài cho dầu và khí đốt trong tương lai.

Năm 2020, tỷ lệ sử dụng điện gió đạt 56% ở Đan Mạch, Uruguay 40%, Lithuania 36%, Ireland 35%, Bồ Đào Nha 23%, Anh 24%, Đức 23%, Tây Ban Nha 20%, Hy Lạp 18%, Thụy Điển 16%, EU 15%, Mỹ 8% và Trung Quốc 6%. Hiện Vương quốc Anh là nước đứng đầu thế giới về phát triển điện gió ngoài khơi, chiếm 40% sản lượng điện gió toàn cầu; Đức đứng thứ hai, chiếm 27%; Đan Mạch chiếm 10,5%; Trung Quốc chiếm 8,4%, Bỉ chiếm 6,0%.

Hiện nay, các trang trại điện gió ngoài khơi chủ yếu phát triển ở các nước Tây Âu, Trung Quốc, châu Mỹ. Tại khu vực Biển Đông, phía Bắc xung quanh eo biển Đài Loan là những nơi có nhiều dự án điện gió được triển khai. Khu vực phía Nam Biển Đông, các dự án điện gió của Việt Nam cũng được phát triển mạnh.

Minh Quân

Quảng Trị định hướng trở thành trung tâm năng lượng của miền TrungQuảng Trị định hướng trở thành trung tâm năng lượng của miền Trung
Ấn Độ trở thành trung tâm năng lượng tái tạo của thế giới trong vài thập kỷ tớiẤn Độ trở thành trung tâm năng lượng tái tạo của thế giới trong vài thập kỷ tới
Tận hưởng kỳ nghỉ “xanh” với những điểm đến hòa cùng thiên nhiênTận hưởng kỳ nghỉ “xanh” với những điểm đến hòa cùng thiên nhiên
10 quốc gia dẫn đầu về năng lượng tái tạo10 quốc gia dẫn đầu về năng lượng tái tạo
Bản tin Năng lượng xanh: BlackRock đầu tư 700 triệu USD cho dự án năng lượng tái tạo và lưu trữ pin của ÚcBản tin Năng lượng xanh: BlackRock đầu tư 700 triệu USD cho dự án năng lượng tái tạo và lưu trữ pin của Úc
Phát triển hệ thống điện theo hướng xanhPhát triển hệ thống điện theo hướng xanh
Mỹ: Nhà đầu tư rót tiền vào các quỹ năng lượng xanhMỹ: Nhà đầu tư rót tiền vào các quỹ năng lượng xanh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 115,400 117,700
AVPL/SJC HCM 115,400 117,700
AVPL/SJC ĐN 115,400 117,700
Nguyên liệu 9999 - HN 10,850 11,200
Nguyên liệu 999 - HN 10,840 11,190
Cập nhật: 06/06/2025 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
TPHCM - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Hà Nội - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Hà Nội - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Đà Nẵng - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Đà Nẵng - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Miền Tây - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Miền Tây - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - PNJ 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 112.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - SJC 116.000 ▲600K 118.000 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 112.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 112.000 ▲100K 114.400 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 111.300 ▲300K 113.800 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 111.190 ▲300K 113.690 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 110.490 ▲300K 112.990 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 110.260 ▲290K 112.760 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 78.000 ▲220K 85.500 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 59.220 ▲170K 66.720 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.990 ▲120K 47.490 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 101.840 ▲270K 104.340 ▲270K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 62.070 ▲180K 69.570 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 66.620 ▲190K 74.120 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 70.030 ▲200K 77.530 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 35.330 ▲120K 42.830 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 30.200 ▲90K 37.700 ▲90K
Cập nhật: 06/06/2025 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 11,010 11,440
Trang sức 99.9 11,000 11,430
NL 99.99 10,760
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,760
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,220 11,500
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,220 11,500
Miếng SJC Thái Bình 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Miếng SJC Nghệ An 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Miếng SJC Hà Nội 11,600 ▲60K 11,800 ▲30K
Cập nhật: 06/06/2025 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16420 16688 17270
CAD 18547 18824 19443
CHF 31131 31509 32157
CNY 0 3530 3670
EUR 29194 29463 30491
GBP 34576 34969 35905
HKD 0 3192 3394
JPY 174 178 184
KRW 0 18 19
NZD 0 15445 16036
SGD 19745 20026 20555
THB 715 778 831
USD (1,2) 25806 0 0
USD (5,10,20) 25846 0 0
USD (50,100) 25874 25908 26241
Cập nhật: 06/06/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,881 25,881 26,241
USD(1-2-5) 24,846 - -
USD(10-20) 24,846 - -
GBP 34,930 35,024 35,959
HKD 3,263 3,272 3,371
CHF 31,306 31,404 32,277
JPY 177.68 178 185.94
THB 762 771.41 825.07
AUD 16,733 16,794 17,247
CAD 18,815 18,875 19,385
SGD 19,921 19,983 20,615
SEK - 2,677 2,770
LAK - 0.92 1.28
DKK - 3,933 4,069
NOK - 2,544 2,633
CNY - 3,593 3,691
RUB - - -
NZD 15,418 15,562 16,016
KRW 17.84 - 19.98
EUR 29,382 29,406 30,658
TWD 786.34 - 951.34
MYR 5,762.33 - 6,500.14
SAR - 6,831.99 7,190.82
KWD - 82,666 88,008
XAU - - -
Cập nhật: 06/06/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,900 25,901 26,241
EUR 29,258 29,376 30,491
GBP 34,771 34,911 35,907
HKD 3,258 3,271 3,376
CHF 31,209 31,334 32,245
JPY 177.02 177.73 185.11
AUD 16,644 16,711 17,246
SGD 19,921 20,001 20,546
THB 778 781 815
CAD 18,742 18,817 19,345
NZD 15,511 16,019
KRW 18.37 20.25
Cập nhật: 06/06/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25879 25879 26240
AUD 16583 16683 17251
CAD 18718 18818 19374
CHF 31372 31402 32275
CNY 0 3593.4 0
CZK 0 1125 0
DKK 0 3905 0
EUR 29459 29559 30337
GBP 34859 34909 36025
HKD 0 3270 0
JPY 177.79 178.79 185.33
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.152 0
MYR 0 6255 0
NOK 0 2510 0
NZD 0 15529 0
PHP 0 440 0
SEK 0 2680 0
SGD 19885 20015 20746
THB 0 743.6 0
TWD 0 850 0
XAU 11200000 11200000 11800000
XBJ 10800000 10800000 11750000
Cập nhật: 06/06/2025 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,890 25,940 26,200
USD20 25,890 25,940 26,200
USD1 25,890 25,940 26,200
AUD 16,636 16,786 17,855
EUR 29,518 29,668 30,846
CAD 18,671 18,771 20,091
SGD 19,974 20,124 20,600
JPY 178.26 179.76 184.45
GBP 34,966 35,116 35,914
XAU 11,598,000 0 11,802,000
CNY 0 3,478 0
THB 0 779 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 06/06/2025 12:00