Sau 1 thập kỷ, Việt Nam là nền kinh tế tăng trưởng “nhanh nhất thế giới”

09:09 | 05/02/2019

264 lượt xem
|
Ấn tượng, kỷ lục, vượt xa, nhanh nhất thế giới... Đó là những từ ngữ được các chuyên gia và giới truyền thông sử dụng để tái hiện sống động nhất về “bức tranh” kinh tế Việt Nam năm 2018. Với mức tăng trưởng 7,08%, kinh tế Việt Nam ghi nhận những “dấu ấn” đặc biệt sau hơn 1 thập kỷ. Trong ngày làm việc đầu tiên của năm mới 2019, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã chia sẻ về chủ đề này với PV Dân trí.

Ấn tượng, kỷ lục, vượt xa, nhanh nhất thế giới... Đó là những từ ngữ được các chuyên gia và giới truyền thông sử dụng để tái hiện sống động nhất về “bức tranh” kinh tế Việt Nam năm 2018. Với mức tăng trưởng 7,08%, kinh tế Việt Nam ghi nhận những “dấu ấn” đặc biệt sau hơn 1 thập kỷ. Trong ngày làm việc đầu tiên của năm mới 2019, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã chia sẻ về chủ đề này với PV Dân trí.

Không chỉ GDP tăng cao...

Năm 2018, cuộc chiến thương mại giữa các nước lớn, các nền kinh tế lớn có diễn biến phức tạp, xu hướng gia tăng chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, cùng với việc Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) liên tiếp 4 lần tăng lãi suất, đồng USD lên giá, lãi suất trung và dài hạn trên thị trường thế giới tăng lên đã tác động đến sản xuất, xuất khẩu của các nước, trong đó có Việt Nam.

Với phương châm “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả”, Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt các Bộ, ngành và địa phương tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tại các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Kết thúc năm 2018, kinh tế - xã hội Việt Nam có những chuyển biến tích cực, đặc biệt là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt mức “kỷ lục” 7,08%.

sau 1 thap ky viet nam la nen kinh te tang truong nhanh nhat the gioi
Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ

Trao đổi với PV Dân trí, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ cho biết: “Sau 11 năm, Việt Nam mới đạt được mức tăng trưởng kinh tế 7,08%, vượt xa chỉ tiêu Quốc hội giao là 6,7%. Đây là kết quả từ điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các cấp, các ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp, của mỗi người công nhân và nông dân”.

Theo Phó Thủ tướng, tăng trưởng kinh tế của năm 2018 có đặc điểm là toàn diện cả về “cung” và “cầu”, trong đó “cung” toàn diện ở 3 lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp xây dựng và dịch vụ. Động lực chính của tăng trưởng năm 2018 là công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ, trong đó công nghiệp chế biến chế tạo tăng rất mạnh (12,98%); dịch vụ tăng 7,03%. Dịch vụ tăng ở cả 2 khu vực bán buôn (tăng 8,51%), sức mua hàng hoá bán lẻ tăng 11,7%- mức tăng 2 con số hiếm thấy do cầu nội địa tốt, lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 8,21% và các dịch vụ ăn uống và lưu trú; vận tải, kho bãi... đều đạt mức tăng trưởng khá.

Đặc biệt, nếu động lực của tăng trưởng năm 2017 là công nghiệp chế biến và chế tạo thì nhân tố làm cho tăng trưởng 2018 cao hơn năm 2017 chính là công nghiệp khai khoáng và nông nghiệp. Bằng chứng là sản xuất nông nghiệp tăng 3,76% - đây là mức tăng cao nhất trong trong giai đoạn 2012 - 2018; công nghiệp khai khoáng năm 2017 giảm 7,16%, sang năm 2018 tốc độ giảm ít hơn với mức 3,11%. Sự sụt giảm chậm lại của công nghiệp khai khoáng và tốc độ tăng kỷ lục của nông nghiệp chính là 2 yếu tố làm cho tăng trưởng kinh tế năm 2018 cao hơn chỉ tiêu đã đặt ra.

“Nhờ đó, quy mô kinh tế năm nay là 5,5 triệu tỷ đồng, tương đương 240,5 tỷ USD, tăng gấp 1,3 lần so với năm 2015. Thu nhập bình quân đầu người đạt xấp xỉ 2.600 USD/người/năm, tăng gần 200 USD so với năm ngoái” - Phó Thủ tướng cho hay.

... mà còn cải thiện về chất lượng tăng trưởng

Nói về chất lượng tăng trưởng kinh tế năm 2018, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định: “Năm 2018 kinh tế Việt Nam không chỉ tăng trưởng cao mà có xu hướng tốt nhờ có sự cải thiện đáng kể về năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động; sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng cao.”.

Để chứng minh do đánh giá nói trên, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đề cập tới yếu tố quan trọng là tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP. Theo Phó Thủ tướng, mục tiêu TFP của kế hoạch 5 năm đặt ra là từ 30-35%, nhưng riêng năm 2018 đã đạt tới 40,23%, trong khi đó cả giai đoạn 2011 - 2015 đóng góp của TFP chỉ đạt 33,58%.

sau 1 thap ky viet nam la nen kinh te tang truong nhanh nhat the gioi
Năm 2018, kinh tế - xã hội Việt Nam có những chuyển biến tích cực, đặc biệt GDP đạt mức “kỷ lục” 7,08%.

Dẫn chứng thêm, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đưa ra các chỉ số tín dụng. “Năm 2016, để có 1% tăng trưởng GDP thì cần tới 2,94% tăng trưởng tín dụng; năm 2017 chỉ số này giảm xuống còn 2,68%. Năm 2018, ước tổng tăng trưởng tín dụng theo cập nhật của Ngân hàng Nhà nước là khoảng 14%, với mức tăng trưởng 7,08% thì chỉ số % tăng trưởng tín dụng cần thiết cho 1% tăng trưởng GDP chỉ còn là 2,1%".

"Mặt khác, giải ngân đầu tư công chậm nhưng tăng trưởng vẫn cao. Rõ ràng, chất lượng tăng trưởng kinh tế năm 2018 là không thể phủ nhận, tăng trưởng kinh tế Việt Nam không còn phụ thuộc nhiều vào vốn.” - Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết.

Về năng suất lao động, Việt Nam có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN. Năng suất lao động toàn nền kinh tế đạt 102 triệu đồng/lao động (tương đương 4.512 USD), tăng 346 USD, cao hơn gần 6% so với năm 2017.

Lời hứa của Chính phủ

Năm 2018, lạm phát tính bình quân là 3,54%, so với 31/12/2017 thì lạm phát thực tăng chưa tới 3%. Đây là năm thứ ba liên tiếp Việt Nam kiểm soát được lạm phát dưới mức 4%. Đáng chú ý, một sự tình cờ rất ngẫu nhiên là chỉ số tăng trưởng (7,08%) gấp đúng 2 lần chỉ số lạm phát (3,54%).

“Có lẽ đây là lần đầu tiên sau hơn 10 năm tốc độ tăng trưởng kinh tế cao gấp đôi chỉ số lạm phát, do đó mức tăng trưởng kinh tế năm 2018 càng có ý nghĩa. Đã có những ý kiến cho rằng Chính phủ nên nới lỏng chỉ số lạm phát, nhưng nhìn vào thực tế tôi cho rằng việc nới lỏng là không thuyết phục khi mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô không chỉ là bài học của Việt Nam vào thời điểm trước đây hay hiện nay và cả nhiều năm tới nữa” - Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nói.

Cần phải nói thêm rằng, trong bối cảnh chỉ số lạm phát thấp vào những tháng cuối năm, nhiều người đặt câu hỏi: Vì sao Chính phủ không chủ động điều hành, tăng thêm về giá, các dịch vụ công do nhà nước quản lý. Trong năm 2018, một số Bộ, ngành và chuyên gia cũng đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để điều chỉnh tăng giá điện, tuy nhiên giá điện vẫn được giữ nguyên.

Lý giải vấn đề này, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho hay: “Khác với các nước, Việt Nam điều hành giá theo mục tiêu “kép”. Mục tiêu thứ nhất là kiểm soát giá theo tín hiệu của thị trường trong nước và thế giới, mục tiêu thứ hai là phải chủ động để điều tiết giá dịch vụ công dần theo thị trường.”

“Trong kịch bản điều hành giá, ngay từ đầu đã thống nhất không tăng giá điện trong năm 2018, Chính phủ đã có Nghị quyết về việc này. Chính phủ, Thủ tướng và Trưởng ban điều hành giá đã hữa là phải làm, không điều chỉnh giá điện vì các điều kiện chưa chín muồi và còn để tạo niềm tin cho người dân và doanh nghiệp, không để yếu tố lạm phát kỳ vọng gia tăng làm ảnh hưởng tới kinh tế vĩ mô- là kinh nghiệm quan trọng trong điều hành giá ở nước ta”, vẫn theo Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ.

sau 1 thap ky viet nam la nen kinh te tang truong nhanh nhat the gioi
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khảo sát hoạt động logistics tại Hải Phòng, tháng 12/2018.

Lãnh đạo Chính phủ cho biết, năm 2019, xu thế tích cực của nền kinh tế vẫn là chủ đạo, triển vọng kinh tế Việt Nam tiếp tục khả quan. Tuy nhiên, các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp cần lưu tâm tới một số rủi ro, thách thức, trong đó lớn nhất là thách thức từ bên ngoài, từ căng thẳng địa chính trị và xung đột thương mại của các nền kinh tế lớn trong khi độ mở của kinh tế Việt Nam rất lớn và quy mô nền kinh tế còn khá khiêm tốn.

“Trong lúc này, chúng ta cần tiếp tục giữ vững và củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu, đồng thời đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng như là các giải pháp gia cố khả năng chống chịu tác động từ kinh tế thế giới và tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế trong tương lai”, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nêu rõ.

Thành quả là tốt đẹp nhưng chặng đường phía trước để hướng tới mục tiêu cơ bản là nước công nghiệp thì vẫn chưa dễ dàng, trong bối cảnh kinh tế, chính trị thế giới nhiều bất trắc hơn trước.

Kết lại bài viết này, PV Dân trí xin được dẫn lời của ông Ousmane Dione - Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam - trong bản tin cuối năm “Âm vang Việt Nam”: “Năm 2018 là một năm tốt đẹp với Việt Nam. Tuy nhiên, con đường của năm 2019 còn nhiều “mây mờ giăng lối”, bởi khi đã trở thành một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới thì Việt Nam cũng dễ bị tổn thương do những biến động, nhất là khi căng thẳng thương mại toàn cầu leo thang…”, đòi hỏi Việt Nam phải bản lĩnh, khôn ngoan và sáng suốt khi ra quyết sách.

Theo Dân trí

sau 1 thap ky viet nam la nen kinh te tang truong nhanh nhat the gioi VERP đề xuất 4 chính sách ổn định tăng trưởng kinh tế
sau 1 thap ky viet nam la nen kinh te tang truong nhanh nhat the gioi Kinh tế tăng trưởng 7,08%, cao nhất 10 năm
sau 1 thap ky viet nam la nen kinh te tang truong nhanh nhat the gioi Kịch bản cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2019-2020

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 144,800 147,800
Hà Nội - PNJ 144,800 147,800
Đà Nẵng - PNJ 144,800 147,800
Miền Tây - PNJ 144,800 147,800
Tây Nguyên - PNJ 144,800 147,800
Đông Nam Bộ - PNJ 144,800 147,800
Cập nhật: 16/10/2025 02:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 14,540 14,790
Trang sức 99.9 14,530 14,780
NL 99.99 14,540
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,540
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,600 14,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,600 14,800
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,600 14,800
Miếng SJC Thái Bình 14,600 14,800
Miếng SJC Nghệ An 14,600 14,800
Miếng SJC Hà Nội 14,600 14,800
Cập nhật: 16/10/2025 02:45
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 146 14,802
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 146 14,803
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 1,442 1,464
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 1,442 1,465
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,419 1,449
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 138,965 143,465
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 101,336 108,836
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 91,192 98,692
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 81,048 88,548
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 77,135 84,635
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 53,079 60,579
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 146 148
Cập nhật: 16/10/2025 02:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16652 16921 17493
CAD 18233 18509 19123
CHF 32269 32652 33284
CNY 0 3470 3830
EUR 30006 30279 31302
GBP 34352 34744 35683
HKD 0 3257 3459
JPY 167 171 177
KRW 0 17 19
NZD 0 14780 15366
SGD 19791 20073 20587
THB 725 788 841
USD (1,2) 26077 0 0
USD (5,10,20) 26118 0 0
USD (50,100) 26146 26181 26369
Cập nhật: 16/10/2025 02:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,166 26,166 26,369
USD(1-2-5) 25,120 - -
USD(10-20) 25,120 - -
EUR 30,254 30,278 31,407
JPY 171.14 171.45 178.52
GBP 34,780 34,874 35,670
AUD 16,925 16,986 17,415
CAD 18,479 18,538 19,051
CHF 32,656 32,758 33,414
SGD 19,968 20,030 20,636
CNY - 3,652 3,746
HKD 3,338 3,348 3,428
KRW 17.17 17.91 19.22
THB 776.28 785.87 835.42
NZD 14,806 14,943 15,280
SEK - 2,737 2,815
DKK - 4,047 4,161
NOK - 2,568 2,640
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,844.75 - 6,552.97
TWD 781.2 - 939.35
SAR - 6,928.45 7,247.93
KWD - 83,867 88,598
Cập nhật: 16/10/2025 02:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,185 26,189 26,369
EUR 30,013 30,134 31,216
GBP 34,518 34,657 35,592
HKD 3,324 3,337 3,440
CHF 32,326 32,456 33,332
JPY 170.25 170.93 177.77
AUD 16,800 16,867 17,383
SGD 19,976 20,056 20,566
THB 788 791 825
CAD 18,449 18,523 19,004
NZD 14,827 15,304
KRW 17.72 19.37
Cập nhật: 16/10/2025 02:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26150 26150 26369
AUD 16818 16918 17529
CAD 18407 18507 19111
CHF 32504 32534 33409
CNY 0 3660.9 0
CZK 0 1220 0
DKK 0 4130 0
EUR 30178 30208 31231
GBP 34651 34701 35822
HKD 0 3390 0
JPY 170.41 170.91 177.95
KHR 0 6.097 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.148 0
MYR 0 6460 0
NOK 0 2645 0
NZD 0 14882 0
PHP 0 425 0
SEK 0 2805 0
SGD 19943 20073 20794
THB 0 753.5 0
TWD 0 860 0
SJC 9999 14600000 14600000 14800000
SBJ 14000000 14000000 14800000
Cập nhật: 16/10/2025 02:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,176 26,226 26,369
USD20 26,176 26,226 26,369
USD1 26,176 26,226 26,369
AUD 16,870 16,970 18,078
EUR 30,359 30,359 31,671
CAD 18,360 18,460 19,772
SGD 20,033 20,183 21,190
JPY 171.13 172.63 177.23
GBP 34,780 34,930 35,701
XAU 14,598,000 0 14,802,000
CNY 0 3,458 0
THB 0 792 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 16/10/2025 02:45