Quyết định của OPEC+ từ bỏ dữ liệu dầu của IEA phản ánh những mâu thuẫn tích tụ

12:28 | 13/04/2022

6,556 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Reuters ngày 12/4/2022 đưa các nguồn tin thân cận cho biết quyết định của Ả Rập Xê-út cho rằng Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và các đối tác (OPEC+) nên ngừng sử dụng dữ liệu dầu từ cơ quan giám sát năng lượng của phương Tây, với lo ngại tác động của Mỹ đối với các số liệu này, đã làm gia tăng thêm căng thẳng cho mối quan hệ giữa Riyadh và Washington.
Quyết định của OPEC+ từ bỏ dữ liệu dầu của IEA phản ánh những mâu thuẫn tích tụ
Ả Rập Xê-út dẫn dắt OPEC quyết định từ bỏ dữ liệu của IEA khi quan hệ với Mỹ căng thẳng.Ảnh:EnergyIntel/Tư liệu.

OPEC+ đã bỏ qua lời kêu gọi của phương Tây về việc tăng sản lượng dầu để cố gắng hạ giá dầu dưới mức 100 USD/thùng. Vấn đề trở nên rất tế nhị khi giá năng lượng đắt đỏ gây ra lạm phát và Tổng thống Mỹ Joe Biden phải đối mặt với áp lực giảm giá xăng đang ở mức cao kỷ lục ở Mỹ trước cuộc bầu cử giữa kỳ vào tháng 11. Thái độ sẵn sàng giúp Mỹ của Riyadh và các đồng minh Vùng Vịnh đã bị xói mòn khi Washington không giải quyết những lo ngại của các nước Vùng Vịnh liên quan đến Iran tại các cuộc đàm phán hạt nhân ở Vienna. Một phát ngôn viên của Nhà Trắng từ chối bình luận.

Trong bối cảnh đó, trong tháng Ba, một cuộc thảo luận kỹ thuật của OPEC+ kéo dài hơn sáu giờ đã kết thúc với quyết định nhất trí loại bỏ các dữ liệu của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) khi đánh giá tình trạng thị trường dầu mỏ. Các nguồn tin cho biết cuộc họp này do Ả Rập Xê-út và Nga đồng chủ trì, với sự tham dự của Algeria, Iraq, Kazakhstan, Kuwait, Nigeria, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) và Venezuela.

Quyết định này phần lớn mang tính biểu tượng vì OPEC+ luôn có thể lựa chọn những dữ liệu mà tổ chức này sử dụng từ sáu nguồn ngoài OPEC khi hình thành quan điểm của mình về sự cân bằng cung và cầu trên thị trường dầu mỏ.

Các nguồn tin cho biết việc OPEC+ chính thức loại bỏ dữ liệu của IEA phản ánh sự thất vọng tích tụ về những gì OPEC+ coi là sự thiên vị của IEA đối với Mỹ, thành viên lớn nhất của IEA. Một trong những nguồn tin liên quan trực tiếp đến quyết định trên nói với Reuters rằng IEA có vấn đề về tính độc lập và việc này đang tác động đến vấn đề đánh giá kỹ thuật. Các nguồn tin giấu tên vì tính nhạy cảm của vấn đề. Bộ Năng lượng của Ả Rập Xê-út và UAE không trả lời yêu cầu bình luận.

Trả lời câu hỏi của Reuters, IEA nói rằng phân tích dữ liệu của họ là trung lập về mặt chính trị. "IEA cố gắng cung cấp một cái nhìn khách quan và độc lập về các nguyên tắc cơ bản của thị trường dầu mỏ và các cân nhắc chính trị chưa bao giờ là một yếu tố trong cách cơ quan này đánh giá triển vọng thị trường". “Báo cáo thị trường dầu bao gồm dữ liệu cung, cầu và tồn kho từ các nguồn chính thức, được bổ sung bởi các ước tính ở những nơi không có sẵn dữ liệu”.

Ra đời từ khủng hoảng dầu mỏ và tích tụ mâu thuẫn mới

IEA được thành lập vào năm 1974 để giúp các quốc gia công nghiệp đối phó với cuộc khủng hoảng dầu mỏ sau khi lệnh cấm vận của Ả Rập đã siết chặt nguồn cung và khiến giá cả tăng vọt. Cơ quan này, tập hợp 31 quốc gia công nghiệp phát triển, tư vấn cho các chính phủ phương Tây về chính sách năng lượng và coi Mỹ là nhà tài chính hàng đầu của mình. Từ khi thành lập, IEA đã chứng kiến ​​thị trường năng lượng thay đổi và mối quan hệ với OPEC đã ổn định và trôi chảy.

Tuy nhiên, báo cáo của IEA trước các cuộc đàm phán về khí hậu của Liên hợp quốc ở Glasgow vào cuối năm 2021 đã tạo điểm mâu thuẫn với Ả Rập Xê-út và UAE. IEA kết luận rằng nếu thế giới nghiêm túc về việc đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050, thì không nên đầu tư vào các dự án hydrocacbon mới. Các nguồn tin cho biết, kết luận đó của IEA đã làm trầm trọng thêm lo ngại của OPEC+ cho rằng IEA đã bỏ qua quy mô của nhu cầu tiếp diễn trong trung hạn và trói buộc OPEC+ với yêu cầu về việc giảm thêm giá dầu cho phù hợp với phương Tây.

Quyết định của OPEC+ từ bỏ dữ liệu dầu của IEA phản ánh những mâu thuẫn tích tụ
Tổ hợp mỏ dầu Shaybah của Ả Rập Xê-út tại Sa mạc Rub' al-Khali, Ả Rập Xê-út.Ảnh: Reuters/Tư liệu.

Một số thành viên OPEC đã công khai chỉ trích quan điểm của IEA. Phát biểu tại một hội nghị ngành dầu khí cuối tháng Ba, Bộ trưởng Năng lượng UAE Suhail al-Mazrouei đã yêu cầu IEA phải "thực tế hơn" và không đưa ra thông tin sai lệch.

Các nguồn tin cho biết các dự đoán của IEA về tác động của cấm vận đối với sản xuất dầu của Nga cũng thu hút sự chỉ trích bên trong OPEC vì được cho là thiết kế để thúc đẩy yêu cầu tăng sản lượng của OPEC. IEA cho rằng sản lượng dầu của Nga có thể giảm 3 triệu thùng/ ngày từ tháng Tư, trong khi các công ty kinh doanh như Vitol và Trafigura cho rằng xuất khẩu dầu của Nga có thể giảm 2-3 triệu thùng/ngày. Theo ước tính của các nhà phân tích và dữ liệu của Nga, sản lượng dầu của Nga giảm dưới 1 triệu thùng/ngày vào đầu tháng Tư.

Cho đến nay OPEC+ vẫn chống lại kêu gọi của Mỹ và IEA về việc bơm thêm dầu để hạ nhiệt giá dầu thô đã tăng lên mức cao nhất trong 14 năm sau các biện pháp cấm vận của phương Tây đối với Nga. Ả Rập Xê-út và UAE nắm giữ phần lớn công suất dự phòng trong OPEC, đều cho biết OPEC+ nên đứng ngoài chính trị và tại cuộc họp cuối tháng 3, OPEC+ đã nhất trí với mức tăng hàng tháng khiêm tốn được lên kế hoạch từ trước.

Tổng thống Mỹ Biden và các đồng minh cho rằng cần phải cung nhiều dầu hơn nữa để hạ giá. Mỹ thông báo về đợt giải phóng kỷ lục lên tới 180 triệu thùng dầu từ Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược (SPR). Tuần trước, IEA cho biết có kế hoạch xuất kho 120 triệu thùng dầu dự trữ trong vòng 6 tháng./.

Thanh Bình

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 112,000 114,000
AVPL/SJC HCM 112,000 114,000
AVPL/SJC ĐN 112,000 114,000
Nguyên liệu 9999 - HN 10,930 11,260
Nguyên liệu 999 - HN 10,920 11,250
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 109.500 113.500
TPHCM - SJC 112.000 114.000
Hà Nội - PNJ 109.500 113.500
Hà Nội - SJC 112.000 114.000
Đà Nẵng - PNJ 109.500 113.500
Đà Nẵng - SJC 112.000 114.000
Miền Tây - PNJ 109.500 113.500
Miền Tây - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 109.500
Giá vàng nữ trang - SJC 112.000 114.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 109.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Kim Bảo 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng Phúc Lộc Tài 999.9 109.500 113.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 109.500 112.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 109.390 111.890
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 9920 108.700 111.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 108.480 110.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 76.650 84.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 58.170 65.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 39.240 46.740
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 100.190 102.690
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 60.970 68.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 65.450 72.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 68.810 76.310
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 34.650 42.150
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 29.610 37.110
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 10,770 11,340
Trang sức 99.9 10,760 11,330
NL 99.99 10,770
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 10,770
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 11,000 11,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 11,000 11,350
Miếng SJC Thái Bình 11,200 11,400
Miếng SJC Nghệ An 11,200 11,400
Miếng SJC Hà Nội 11,200 11,400
Cập nhật: 20/04/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16018 16284 16866
CAD 18204 18480 19104
CHF 31144 31522 32174
CNY 0 3358 3600
EUR 28927 29196 30243
GBP 33694 34083 35039
HKD 0 3212 3416
JPY 175 179 186
KRW 0 0 18
NZD 0 15095 15686
SGD 19247 19526 20065
THB 691 754 810
USD (1,2) 25685 0 0
USD (5,10,20) 25723 0 0
USD (50,100) 25751 25785 26140
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 25,760 25,760 26,120
USD(1-2-5) 24,730 - -
USD(10-20) 24,730 - -
GBP 33,968 34,060 34,982
HKD 3,282 3,292 3,392
CHF 31,194 31,291 32,163
JPY 178.5 178.82 186.81
THB 740.07 749.21 801.6
AUD 16,287 16,346 16,793
CAD 18,454 18,514 19,017
SGD 19,426 19,486 20,104
SEK - 2,648 2,742
LAK - 0.91 1.27
DKK - 3,883 4,018
NOK - 2,432 2,519
CNY - 3,514 3,610
RUB - - -
NZD 15,047 15,187 15,633
KRW 16.91 - 18.95
EUR 29,038 29,061 30,301
TWD 718.5 - 869.45
MYR 5,495.06 - 6,198.75
SAR - 6,797.15 7,154.99
KWD - 82,344 87,585
XAU - - -
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,740 25,750 26,090
EUR 28,913 29,029 30,117
GBP 33,782 33,918 34,888
HKD 3,273 3,286 3,393
CHF 31,098 31,223 32,134
JPY 177.71 178.42 185.88
AUD 16,208 16,273 16,801
SGD 19,422 19,500 20,031
THB 757 760 794
CAD 18,383 18,457 18,972
NZD 15,207 15,715
KRW 17.45 19.24
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25765 25765 26125
AUD 16180 16280 16853
CAD 18365 18465 19022
CHF 31279 31309 32190
CNY 0 3517.1 0
CZK 0 1080 0
DKK 0 3810 0
EUR 29044 29144 30017
GBP 33926 33976 35087
HKD 0 3320 0
JPY 179.2 179.7 186.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.4 0
LAK 0 1.141 0
MYR 0 6000 0
NOK 0 2490 0
NZD 0 15188 0
PHP 0 422 0
SEK 0 2633 0
SGD 19385 19515 20248
THB 0 720.6 0
TWD 0 770 0
XAU 11700000 11700000 12000000
XBJ 11200000 11200000 12000000
Cập nhật: 20/04/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 25,770 25,820 26,120
USD20 25,770 25,820 26,120
USD1 25,770 25,820 26,120
AUD 16,219 16,369 17,463
EUR 29,191 29,341 30,553
CAD 18,317 18,417 19,760
SGD 19,461 19,611 20,111
JPY 179.16 180.66 185.56
GBP 34,025 34,175 35,054
XAU 11,698,000 0 12,002,000
CNY 0 3,401 0
THB 0 757 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 20/04/2025 15:00