Phát triển công nghiệp lọc hóa dầu

Những cản ngại từ cơ chế, chính sách

08:57 | 23/10/2018

1,699 lượt xem
|
(PetroTimes) - Mới đây, tại Trường Đại học Bách khoa thuộc Đại học Đà Nẵng, Hội Dầu khí Việt Nam phối hợp với Chi hội Dầu khí Quảng Ngãi tổ chức Hội thảo “Ngành công nghiệp lọc hóa dầu Việt Nam - Cơ hội và thách thức” nhằm nhận diện rõ hơn thực trạng của lĩnh vực lọc hóa dầu nước ta.

Cơ hội và thách thức đan xen

nhung can ngai tu co che chinh sach
Tiến sĩ Phan Minh Quốc Bình - Hiệu trưởng Trường Đại học Dầu khí

Theo Tiến sĩ Phan Minh Quốc Bình, Hiệu trưởng Trường Đại học Dầu khí, ngành công nghiệp lọc hóa dầu nước ta đang có những cơ hội và thách thức đan xen. Xu hướng toàn cầu hóa đang mở ra cơ hội rất lớn cho ngành công nghiệp lọc hóa dầu. Đặc biệt khi nước ta tham gia sâu rộng các hiệp định thương mại tự do (FTA), thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở ra trên bình diện rộng. Nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ sau giai đoạn suy thoái, kéo theo nhu cầu về năng lượng tăng cao. Vị thế, uy tín và mối quan hệ quốc tế của Việt Nam nói chung, ngành Dầu khí nói riêng, với bạn bè quốc tế ngày càng được khẳng định. Lĩnh vực lọc hóa dầu của Việt Nam tuy còn non trẻ, nhưng là điểm đến giàu tiềm năng của các nhà đầu tư trên thế giới…

Bên cạnh đó cũng có nhiều thách thức. Trước hết, trữ lượng thu hồi dầu khí của ngành Dầu khí Việt Nam chủ yếu ở vùng biển xa bờ, sản lượng dầu thô trong nước sụt giảm. Cùng với đó, giá dầu thô biến động mạnh, làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà máy lọc hóa dầu.

Một áp lực rất lớn khi mở cửa thị trường, Nhà nước sẽ không được bảo hộ sản phẩm nội địa khi tham gia các FTA - một thách thức đối với ngành công nghiệp lọc hóa dầu non trẻ của Việt Nam.

Dự án nâng cấp mở rộng NMLD Dung Quất đang rơi vào thế… bế tắc. Dự án cần một nguồn vốn quá lớn, BSR và cả PVN không thể tự mình thu xếp. Vay thương mại thì không hiệu quả, trong khi đó, Chính phủ không bảo lãnh vay vốn, việc thu xếp vốn cho dự án “lực bất tòng tâm”.

Chưa hết, vẫn còn một vài thách thức nữa: Việc tiêu thụ nhiên liệu sinh học đang gặp nhiều khó khăn; chi phí đầu tư các nhà máy lọc hóa dầu khá lớn. Cạnh tranh giữa nhiên liệu tái tạo và nhiên liệu truyền thống ngày càng quyết liệt với sự siết chặt tiêu chuẩn khí thải. Những bất ổn về chính trị ở khu vực Trung Đông, Nam Mỹ và Biển Đông có tác động không nhỏ đến ngành Dầu khí nước ta…

Có thể nói, cơ hội và thách thức đan xen, vừa tạo ra thời cơ, vừa tiềm ẩn những rủi ro, những khó khăn không hề nhỏ đối với ngành công nghiệp lọc hóa dầu non trẻ của Việt Nam.

Bất hợp lý từ cơ chế, chính sách

nhung can ngai tu co che chinh sach
Ông Nguyễn Văn Hội - Phó tổng giám đốc Công ty CP Lọc hóa dầu Bình Sơn

Ông Nguyễn Văn Hội - Phó tổng giám đốc Công ty CP Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) cho biết: Mặc dù 9 tháng năm 2018, Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất đã đạt sản lượng sản xuất 5,3 triệu tấn; doanh thu 83.807 tỉ đồng; nộp ngân sách Nhà nước khoảng 9.265 tỉ đồng, nhưng nhà máy đang gặp rất nhiều khó khăn: Nguồn dầu thô ngọt trong nước đang suy giảm dần về sản lượng và chất lượng. Bên cạnh đó, yêu cầu ngày càng khắt khe về tiêu chuẩn môi trường đòi hỏi phải nâng cấp chất lượng sản phẩm của NMLD Dung Quất từ EURO 2 lên EURO 5 theo lộ trình của Chính phủ… Những điều đó đòi hỏi BSR phải tìm kiếm nguồn dầu thô có chất lượng tương đương dầu Bạch Hổ và khẩn trương hoàn thành Dự án nâng cấp mở rộng NMLD Dung Quất.

Quyết tâm là như vậy và cán bộ, công nhân, người lao động BSR đang ngày đêm bám máy, lăn lộn ngoài công trường, song vẫn chưa đủ, không thể đẩy nhanh tiến độ dự án và nâng công suất sản xuất của NMLD Dung Quất, vì những ràng buộc về cơ chế chính sách.

Điều bất hợp lý đầu tiên là sự cạnh tranh thiếu bình đẳng với Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn. Có thể nói, từ khi Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn đi vào hoạt động, với những ưu đãi hơn hẳn, giá thành sản phẩm của Nghi Sơn thấp hơn nhiều so với giá thành sản phẩm của Dung Quất cùng thời điểm. Có thể nêu ra những ưu đãi mà Nghi Sơn đang thụ hưởng:

Có 5 vấn đề lớn cần xử lý của lĩnh vực lọc hóa dầu: Tiêu thụ sản phẩm; bảo lãnh để vay vốn triển khai các dự án mà Nhà nước chiếm tỷ lệ chi phối; chính sách thuế; nguyên liệu, đặc biệt là khí cho các nhà máy đạm; chính sách đặc thù cho ngành Dầu khí.

Nghi Sơn được cấp bù 3% cho PP; 5% cho LPG; 7% cho xăng và dầu khi bán nội địa, trong khi thì NMLD Dung Quất hoàn toàn không được hưởng chính sách này.

Thuế nhập khẩu dầu thô Nghi Sơn bằng 0%, trong khi NMLD Dung Quất phải chịu thuế 5% đối với nguồn dầu thô nhập khẩu từ các nước không thực hiện đối xử tối huệ quốc. Cùng với đó, Nghi Sơn không phải chịu thuế xuất khẩu sản phẩm, còn NMLD Dung Quất là đối tượng chịu thuế xuất khẩu, không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.

Chỉ tính riêng việc chuyển đổi ngoại tệ, trong khi Nghi Sơn được tự do chuyển đổi ngoại tệ, thì NMLD Dung Quất phải xin phép Ngân hàng Nhà nước khi có nhu cầu mua ngoại tệ và thanh toán ngoại tệ cho từng hợp đồng. Với thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%, Nghi Sơn được thụ hưởng suốt đời, còn NMLD Dung Quất chỉ được thụ hưởng 30 năm kể từ khi hoạt động (theo Quyết định số 952/QĐ-TTg ngày 26/7/2012)…

nhung can ngai tu co che chinh sach
Nhà máy Lọc dầu Dung Quất

Có thể nói, sự thiếu ổn định về cơ chế, chính sách đang tiềm ẩn những nguy cơ bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của BSR. Cụ thể, Quyết định số 1752/QĐ-TTg ngày 3/9/2016 đã ghi rõ: Kể từ ngày 1/1/2017, bãi bỏ quy định về thu điều tiết đối với sản phẩm lọc hóa dầu tiêu thụ trong nước của BSR. Nhưng hiện tại, Chính phủ đang xem xét lại việc thu điều tiết trên giá bán sản phẩm của NMLD Dung Quất.

Cho đến thời điểm hiện tại, Dự án nâng cấp mở rộng NMLD Dung Quất đang rơi vào thế… bế tắc. Dự án cần một nguồn vốn quá lớn, BSR và cả PVN không thể tự mình thu xếp. Vay thương mại thì không hiệu quả, trong khi đó, Chính phủ không bảo lãnh vay vốn, việc thu xếp vốn cho dự án “lực bất tòng tâm”.

Sau năm 2018, nguồn cung khí suy giảm, Đạm Cà Mau không đủ lượng khí đầu vào để vận hành 100% công suất. Bên cạnh đó, Nhà máy Đạm Cà Mau còn khấu hao khoảng 1.200 tỉ đồng/năm; nợ gốc và lãi vay bình quân trên 900 tỉ đồng/năm. Đó là những thách thức lớn về tài chính đang cần được hóa giải của PVCFC.

Một khó khăn nữa là báo cáo đánh giá tác động môi trường chậm được phê duyệt, nên dẫn đến vướng mắc trong việc phê duyệt thiết kế FEED và dự toán làm cơ sở tiến tới các thủ tục đấu thầu EPC tiếp theo…

Trước những khó khăn đó, đại diện BSR kiến nghị: Giữ nguyên cơ chế đang có hiệu lực theo Quyết định 1725/QĐ-TTg ngày 3/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ; không áp dụng chính sách thu điều tiết đối với sản phẩm xăng của BSR nhằm bảo đảm cạnh tranh bình đẳng theo cơ chế thị trường, khẳng định sự ổn định và nhất quán trong chính sách của Chính phủ cũng như tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh giai đoạn2018-2022 tại phương án cổ phần hóa BSR đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và để thực hiện thành công Dự án nâng cấp mở rộng NMLD Dung Quất.

Kiến nghị điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu dầu thô Azeri từ Azerbaijan nói riêng, các loại dầu thô nhập khẩu khác nói chung, cho NMLD Dung Quất (bao gồm cả sau khi NMLD Dung Quất được nâng cấp mở rộng) tương tự như Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn là 0%. Xem xét loại bỏ các sản phẩm (ngoại trừ Polypropylene đã được cho phép) được chế biến từ dầu thô ra khỏi danh sách các sản phẩm không chịu thuế GTGT khi xuất khẩu (bao gồm cả xuất khẩu trực tiếp từ BSR hoặc thông qua các đầu mối). Tiếp tục cho phép BSR sản xuất sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn EURO 2 như thiết kế cho đến khi BSR hoàn thành dự án nâng cấp mở rộng NMLD Dung Quất. Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường đẩy nhanh công tác phê duyệt báo cáo tác động môi trường của Dự án nâng cấp mở rộng NMLD Dung Quất.

Cần phải nói thêm, tính từ tháng 2/2009 đến nay, NMLD Dung Quất đã sản xuất 55,6 triệu tấn sản phẩm, doanh thu khoảng 964,98 nghìn tỉ đồng (tương đương hơn 40 tỉ USD); nộp ngân sách khoảng 154,78 nghìn tỉ đồng (tương đương 7 tỉ USD). Năm 2018, nhà máy hoạt động ổn định, công suất tối ưu (bình quân 107% so với công suất kế hoạch là 100%). 9 tháng năm 2018, giá trị thực hiện tiết kiệm ước 712,39 tỉ đồng, vượt 47,6% so với chỉ tiêu năm 2018 đặt ra (482,64 tỉ đồng), trong đó phần giảm tiêu hao trong chế biến, tối ưu hóa năng lượng khoảng 707,05 tỉ đồng.

Thách thức là thế, nhưng BSR cũng nhìn ra cơ hội để phát triển. Đầu tiên là thị trường sản phẩm hóa dầu tiềm năng, cấu hình NMLD Dung Quất mở, có thể đa dạng hóa sản phẩm, phát triển các sản phẩm hóa dầu. Sau gần 10 năm vận hành NMLD Dung Quất, đội ngũ nhân sự vận hành, bảo dưỡng của BSR đã trưởng thành, nhiều người đạt tới đẳng cấp chuyên gia lọc dầu, nên có thể “xuất khẩu chất xám” cho các nhà máy lọc hóa dầu trong và ngoài nước. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra cơ hội để BSR hoàn thiện hệ thống quản trị nội bộ, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Những con số đó nói lên tính hiệu quả của doanh nghiệp, là cơ sở sống động để các bộ, ngành xem xét trình Chính phủ có cơ chế thống nhất, ổn định, tạo điều kiện để BSR phát triển bền vững, mục tiêu cuối cùng là ngành công nghiệp lọc hóa dầu không “tự thua trên sân nhà”.

nhung can ngai tu co che chinh sach
Ông Bùi Minh Tiến - Chủ tịch HĐQT Công ty Phân bón Dầu khí Cà Mau

Có một ví dụ khác rất đáng quan tâm. Cũng như BSR, Công ty CP Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC) đang gặp muôn vàn khó khăn. Ông Bùi Minh Tiến - Chủ tịch HĐQT PVCFC cho biết: PVCFC là doanh nghiệp đầu tiên sản xuất thành công loại urê hạt đục tại Việt Nam, là một trong những doanh nghiệp dẫn đầu thị trường phân bón hiện nay, chiếm thị phần hơn 30% trên thị trường phân bón trong nước.

Sau 7 năm hoạt động, Nhà máy Đạm Cà Mau đã cung cấp trên 5 triệu tấn phân đạm cho nền nông nghiệp nước nhà và hàng trăm nghìn tấn phân bón chuyên dụng khác, cung ứng nguồn phân bón chất lượng tốt, đều đặn cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đạm Cà Mau cung ứng nguồn phân bón chất lượng tốt với giá hợp lý, kịp thời vụ, được nông dân tin dùng.

Tuy nhiên, Đạm Cà Mau đang phải đối mặt với vô vàn thách thức như: Cạnh tranh về giá với phân bón nhập khẩu do các nhà máy nước ngoài có sẵn nguyên liệu khí, được trợ giá khí, thời gian các nhà máy đi vào hoạt động đã lâu nên mức khấu hao thấp. Công tác quản lý thị trường phân bón thiếu đồng bộ và chồng chéo, dẫn đến tồn tại tình trạng phân bón giả, kém chất lượng xảy ra tràn lan, ảnh hưởng đến nhà sản xuất phân bón có thương hiệu trong nước.

nhung can ngai tu co che chinh sach
Ông Hoàng Xuân Hùng - Phó chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam

Nhà máy Đạm Cà Mau được thiết kế sử dụng nguồn cấp khí duy nhất từ mỏ PM3-CAA & 46 CN. Sau năm 2018, nguồn cung khí suy giảm, Đạm Cà Mau không đủ lượng khí đầu vào để vận hành 100% công suất. Bên cạnh đó, Nhà máy Đạm Cà Mau còn khấu hao khoảng 1.200 tỉ đồng/năm; nợ gốc và lãi vay bình quân trên 900 tỉ đồng/năm. Đó là những thách thức lớn về tài chính đang cần được hóa giải của PVCFC.

Ông Bùi Minh Tiến cho biết: Chính sách hỗ trợ giá khí của Chính phủ với Nhà máy Đạm Cà Mau chỉ kéo dài đến hết năm 2018 (giá khí chiếm 43% giá thành sản phẩm). Giá khí mà Chính phủ đang xem xét cao hơn, ảnh hưởng đến hiệu quả của nhà máy.

Do đó, PVCFC kiến nghị Chính phủ có những quyết sách đúng đắn về nguồn khí và giá khí đầu vào cho Nhà máy Đạm Cà Mau để nhà máy duy trì sản xuất, hỗ trợ nông dân được tiếp cận với sản phẩm chất lượng tốt, giá cả phải chăng để canh tác có lãi, góp phần ổn định thị trường phân bón trong nước, giảm nhập khẩu phân bón.

Ý kiến chuyên gia

Trước thực trạng trên, các chuyên gia tham dự hội thảo đã có những ý kiến vừa mang tính phản biện, vừa mang tính kiến nghị.

nhung can ngai tu co che chinh sach
Ông Bỳ Văn Tứ - Ủy viên BTV Hội Dầu khí Việt Nam

Theo ông Bỳ Văn Tứ, Ủy viên BTV Hội Dầu khí Việt Nam, chính sách cho phát triển hóa dầu là không rõ ràng và không nhất quán. Chúng ta đều nhận thấy rằng, thời gian tới, khâu hóa dầu sẽ bị thoái vốn, vai trò Việt Nam sẽ là thứ yếu trong các liên doanh mà Dự án Long Sơn là một ví dụ điển hình. “Chúng ta cứ mơ tưởng dự án này dự án kia, nhưng chính sách của Nhà nước có thực sự hướng tới phát triển hóa dầu không? Bên cạnh đó, nguồn vốn cấp cho các doanh nghiệp ít, thậm chí không có. Ngược lại, tận thu bằng thuế đã diễn ra và đang có xu hướng lặp lại” - ông Bỳ Văn Tứ phân tích.

Bất cứ dự án công nghiệp nào, cụ thể là dự án dầu khí, khi Việt Nam tham gia thì trì trệ, nhưng phía Việt Nam rút vốn là triển khai ào ào. Hóa dầu sắp tới chỉ có nước ngoài hoặc tư nhân mới làm nhanh và hiệu quả. Hóa dầu đang gặp khó khăn do chúng ta không gắn với các ngành công nghiệp cần nguyên liệu hóa dầu. Việc thì cần, tiền thì có, nhưng người làm rất ít, tức không đủ cơ chế để làm, không đủ tính thuyết phục để vay tiền làm, nên ít người dám làm, dám quyết… Theo ông Tứ, điều kiện quan trọng nhất là Chính phủ cần tháo gỡ vướng mắc về cơ chế để các dòng tiền “chảy” nhanh, đúng luật, doanh nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh.

Còn ông Hoàng Xuân Hùng, Phó chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam đề nghị: Có 5 vấn đề lớn cần xử lý của lĩnh vực lọc hóa dầu, đó là: Tiêu thụ sản phẩm; bảo lãnh để vay vốn triển khai các dự án mà Nhà nước chiếm tỷ lệ chi phối; chính sách thuế; nguyên liệu, đặc biệt là khí cho các nhà máy đạm; chính sách đặc thù cho ngành Dầu khí.

Chỉ khi giải quyết rốt ráo được 5 vấn đề nêu trên, ngành công nghiệp lọc hóa dầu nước ta mới phát triển bền vững.

Lâm Quý

nhung can ngai tu co che chinh sachQuản lý công nghệ - vấn đề "then chốt" của công nghiệp dầu khí
nhung can ngai tu co che chinh sachCơ hội và thách thức với ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam
nhung can ngai tu co che chinh sachCông nghiệp dầu khí và thách thức từ cách mạng công nghiệp 4.0
nhung can ngai tu co che chinh sachNền tảng phát triển bền vững của BSR

  • bidv-14-4
  • thp
  • top-right-banner-chuyen-muc-pvps
  • banner-pvi-horizontal
  • pvoil-duong-xa-them-gan
  • agribank-vay-mua-nha
  • bao-hiem-pjico

Giá vàng

PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 146,100 149,100
Hà Nội - PNJ 146,100 149,100
Đà Nẵng - PNJ 146,100 149,100
Miền Tây - PNJ 146,100 149,100
Tây Nguyên - PNJ 146,100 149,100
Đông Nam Bộ - PNJ 146,100 149,100
Cập nhật: 24/11/2025 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Miếng SJC Hà Nội 14,840 15,040
Miếng SJC Nghệ An 14,840 15,040
Miếng SJC Thái Bình 14,840 15,040
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 14,700 ▼40K 15,000 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 14,700 ▼40K 15,000 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 14,700 ▼40K 15,000 ▼40K
NL 99.99 14,060 ▲20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 14,060 ▲20K
Trang sức 99.9 14,260 ▼40K 14,890 ▼40K
Trang sức 99.99 14,270 ▼40K 14,900 ▼40K
Cập nhật: 24/11/2025 15:00
SJC Mua vào Bán ra
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 5 chỉ 1,484 15,042
Hồ Chí Minh - Vàng SJC 0.5 chỉ, 1 chỉ, 2 chỉ 1,484 15,043
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 146 1,485
Hồ Chí Minh - Vàng nhẫn SJC 99,99% 0.5 chỉ, 0.3 chỉ 146 1,486
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99,99% 1,445 1,475
Hồ Chí Minh - Nữ trang 99% 14,154 14,604
Hồ Chí Minh - Nữ trang 75% 103,286 110,786
Hồ Chí Minh - Nữ trang 68% 9,296 10,046
Hồ Chí Minh - Nữ trang 61% 82,634 90,134
Hồ Chí Minh - Nữ trang 58,3% 78,651 86,151
Hồ Chí Minh - Nữ trang 41,7% 54,164 61,664
Miền Bắc - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hạ Long - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Hải Phòng - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Trung - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Huế - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Quảng Ngãi - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Nha Trang - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Biên Hòa - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Miền Tây - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Bạc Liêu - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cà Mau - Vàng SJC 1L, 10L, 1KG 1,484 1,504
Cập nhật: 24/11/2025 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng TCB
AUD 16515 16783 17363
CAD 18178 18454 19070
CHF 31961 32342 32987
CNY 0 3470 3830
EUR 29749 30021 31048
GBP 33742 34131 35064
HKD 0 3258 3460
JPY 161 165 171
KRW 0 16 18
NZD 0 14467 15054
SGD 19658 19939 20459
THB 726 790 843
USD (1,2) 26115 0 0
USD (5,10,20) 26157 0 0
USD (50,100) 26185 26205 26401
Cập nhật: 24/11/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng BIDV
USD 26,181 26,181 26,401
USD(1-2-5) 25,134 - -
USD(10-20) 25,134 - -
EUR 29,945 29,969 31,106
JPY 165.17 165.47 172.4
GBP 34,125 34,217 35,012
AUD 16,773 16,834 17,268
CAD 18,398 18,457 18,980
CHF 32,301 32,401 33,063
SGD 19,785 19,847 20,461
CNY - 3,661 3,758
HKD 3,336 3,346 3,428
KRW 16.57 17.28 18.55
THB 775.66 785.24 835.28
NZD 14,496 14,631 14,977
SEK - 2,722 2,801
DKK - 4,005 4,121
NOK - 2,534 2,608
LAK - 0.93 1.28
MYR 5,962.44 - 6,687.75
TWD 759.69 - 914.07
SAR - 6,929.24 7,253.41
KWD - 83,686 88,492
Cập nhật: 24/11/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 26,180 26,181 26,401
EUR 29,755 29,874 31,004
GBP 33,885 34,021 34,988
HKD 3,319 3,332 3,440
CHF 32,009 32,138 33,025
JPY 164.34 165 171.90
AUD 16,674 16,741 17,277
SGD 19,803 19,883 20,420
THB 790 793 828
CAD 18,358 18,432 18,965
NZD 14,525 15,032
KRW 17.18 18.76
Cập nhật: 24/11/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 26155 26155 26401
AUD 16657 16757 17680
CAD 18336 18436 19451
CHF 32173 32203 33789
CNY 0 3673 0
CZK 0 1206 0
DKK 0 4080 0
EUR 29871 29901 31629
GBP 33993 34043 35804
HKD 0 3390 0
JPY 164.69 165.19 175.7
KHR 0 6.097 0
KRW 0 17.5 0
LAK 0 1.1805 0
MYR 0 6520 0
NOK 0 2595 0
NZD 0 14569 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2780 0
SGD 19764 19894 20622
THB 0 756.4 0
TWD 0 840 0
SJC 9999 14840000 14840000 15040000
SBJ 13000000 13000000 15040000
Cập nhật: 24/11/2025 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng OCB
USD100 26,190 26,240 26,401
USD20 26,190 26,240 26,401
USD1 26,190 26,240 26,401
AUD 16,726 16,826 17,942
EUR 30,059 30,059 31,171
CAD 18,299 18,399 19,706
SGD 19,861 20,011 20,574
JPY 165.28 166.78 172
GBP 34,116 34,266 35,047
XAU 14,838,000 0 15,042,000
CNY 0 3,559 0
THB 0 791 0
CHF 0 0 0
KRW 0 0 0
Cập nhật: 24/11/2025 15:00